Home Liêu Trai Chí Dị QUYỂN XVI – 392 – 395-: Tế Hầu (Tế Hầu)

QUYỂN XVI – 392 – 395-: Tế Hầu (Tế Hầu)

Mãn sinh người huyện Xương Hóa dạy học ở huyện Dư Hàng (đều thuộc tỉnh Chiết Giang), ngẫu nhiên dạo phố, đi qua dưới một dãy gác. Chợt bị cái vỏ trái vải rơi trúng vai, ngẩng nhìn thì thấy một nàng ca kỹ trẻ tuổi dựa lan can cúi xuống cười rồi bước vào trong. Sinh hỏi thăm, thì nàng ấy là Tế Hầu con bà Giả chủ nhà chứa. Nghe nói nàng nêu giá rất cao, nghĩ lại thấy mình không sao gặp được, về nhà tơ tưởng cả đêm không ngủ. Hôm sau tới đưa danh thiếp xin gặp, thấy nàng cười nói vui vẻ thân mật, lòng càng say mê. Bèn tìm cớ hỏi mượn bạn bè đủ số tiền mang tới đưa Tế Hầu, nàng tiếp đãi rất chu đáo. Lúc trên giường sinh khẩu chiếm một bài thơ tứ tuyệt tặng nàng rằng:

Cao nhị đồng bàn dạ vị ương,

Sàng đầu tế ngữ xạ lan hương,

Tân hoàn minh nhật trùng trang phượng,

Vô phục hành vân mộng Sở vương.

(Đêm thẳm êm đềm bóng giá sương .

Đầu giường nói khẽ ngát mùi hương

Sáng mai tóc mới cài trâm phượng .

Vắng mãi mây mưa mộng Sở vương) .

Tế Hầu buồn bã nói ”Thiếp tuy nhơ nhuốc hèn hạ nhưng vẫn ước mong tìm được kẻ đồng tâm để thờ, chàng còn chưa có vợ, thấy thiếp có đáng chăm sóc việc nhà không?”. Sinh mừng rỡ, lập tức hẹn hò thề thốt với nàng. Tế Hầu cũng vui mừng nói “Chuyện ngâm vịnh thiếp tự thấy là không khó, lúc nào không có ai cũng muốn đua đòi làm một bài, nhưng sợ chưa hay lại bị người ta xem thấy chê cười. Nếu được theo nhau, xin chàng dạy thêm cho thiếp”. Nhân hỏi gia sản của sinh có bao nhiêu, sinh đáp “chỉ có năm mươi mẫu ruộng xấu, vài gian nhà nát thôi”. Tế Hầu nói “Thiếp về với chàng rồi, thì nên ở nhà đừng đi dạy học nữa. Bốn chục mẫu ruộng trồng lúa cũng tạm đủ ăn, để mười mẫu trồng dâu, dệt năm cuộn vải là thừa nộp thuế rồi. Cứ đóng cửa nhìn nhau, chàng đọc sách thiếp dệt vải thì thơ rượu đủ vui, chức Thiên hộ hầu có gì là quý?”. Sinh hỏi “Muốn chuộc nàng ra khỏi đây thì phải mất bao nhiêu tiền?”, nàng đáp “Nếu theo lòng tham của mẹ thì bao nhiêu cho đủ được? Nhiều lắm cũng chỉ hai trăm đồng vàng là đủ. Nhưng đáng hận là thiếp lúc còn nhỏ tuổi không biết quý tiền bạc, có được bao nhiêu là đưa hết cho mẹ, số để riêng chỉ có chút ít không đáng kể, chàng cố lo đủ một trăm, số còn lại thì đừng lo”. Sinh nói “Tiểu sinh vốn nghèo, nàng cũng biết rồi, lấy đâu ra trăm đồng vàng được? Nhưng có người bạn thân làm Tri huyện ở tỉnh Hồ Nam, mấy lần gọi mời mà ta thấy xa ngại đi. Nay có việc nàng thì phải tới đó tính, khoảng ba bốn tháng sẽ trở về, xin cố chờ nhau”, Tế Hầu ưng thuận.

Sinh lập tức nghỉ dạy đi Hồ Nam, tới nơi thì người bạn mắc lỗi vừa bị cách chức, ở trọ nhà dân, trong túi rỗng không không có gì tặng tiễn. Sinh bơ vơ không thể trở về, phải ở lại huyện dạy học, ba năm vẫn chưa về được. Một lần đánh học trò, học trò tự tử chết, người cha xót con kiện thầy, nên sinh bị bắt giam. May có cha mẹ học trò khác thương thầy vô tội thường đem cơm cho, nhờ thế cũng không khổ lắm. Từ khi chia tay sinh, Tế Hầu đóng cửa không tiếp một người khách nào, mẹ hỏi biết nguyên do nhưng không cưỡng ép được, cũng đành để mặc ý. Có nhà buôn giàu là Mỗ hâm mộ danh tiếng Tế Hầu, nhờ mẹ nàng làm mối, quyết cưới bằng được, không nề phí tổn nhưng Tế Hầu không chịu. Người nhà buôn đi buôn xuống Hồ Nam, hỏi dò tin tức của sinh, lúc ấy việc kiện tụng đã sắp xong, người nhà buôn lại đem tiền hối lộ cho quan lại đương chức, bảo cứ giam sinh thật lâu, rồi về nói với mẹ Tế Hầu rằng sinh vì đói rét đã chết trong ngục rồi. Tế Hầu ngờ là tin tức không đúng, người mẹ nói “Đừng nói là Mãn sinh đã chết, cho dù chưa chết thì làm vợ một anh học trò nghèo kiết, chỉ mặc áo vải cài thoa gai suốt đời làm sao bằng kẻ mặc áo gấm chán thịt ngon được?”. Tế Hầu nói “Mãn sinh tuy nghèo nhưng khí cốt thanh cao, chứ lấy anh nhà buôn giàu có thô bỉ thì con không muốn. Vả lại lời nói trên đường thì làm sao tin được?”.

Người nhà buôn bèn nhờ người bạn buôn khác giả làm thư tuyệt mệnh của Mãn sinh gởi Tế Hầu để nàng hết mong đợi. Tế Hầu được thư, khóc lóc cả ngày, người mẹ nói “Từ khi ta có con, nuôi nấng vất vả, con thành nhân được ba năm, chưa báo đáp được gì nhiều, đã không muốn làm kỹ nữ thì nếu không lấy chồng làm sao mà sống?”. Tế Hầu bất đắc dĩ phải lấy người nhà buôn. Người nhà buôn cho nàng đủ thứ áo quần nữ trang, tiền bạc thừa thải. Hơn một năm thì nàng sinh được một con trai. Không bao lâu sau Mãn sinh nhờ có học trò ra sức giúp đỡ nên được rửa oan thả ra, mới biết chuyện người nhà buôn xúi quan giam giữ mình thêm. Nhưng lại nghĩ hai bên không có thù oán gì, suy nghĩ mãi không rõ vì sao. Học trò giúp đỡ tiền ăn đường để trở về. Tới Dư Hàng nghe tin Tế Hầu đã lấy chồng, sinh vô cùng đau đớn, bèn kể những chuyện khổ cực của mình nhờ người bán rượu cho nhà chứa kể lại cho Tế Hầu biết. Tế Hầu rất buồn bã, mới biết việc rắc rối sinh gặp trước kia đều là mưu mô hiểm ác của người nhà buôn. Bèn nhân lúc người nhà buôn đi vắng, giết chết đứa con còn bế, mang tiền bạc của mình trốn theo Mãn. Người nhà buôn về, căm giận kiện lên quan, quan thương tình hai người nên không hỏi tới. Than ôi, Quan Vũ về Hán* có gì khác thế đâu? Nhưng xem việc giết con rồi đi, thì cũng là người đàn bà nhẫn tâm trên đời vậy.

*Quan Vũ về Hán. Quan Vũ là em kết nghĩa và tướng của Lưu Bị, Tiên chủ nhà Thục Hán thời Tam quốc. Có lần Lưu Bị bị Tào Tháo đánh bại, Quan Vũ bảo vệ hai người vợ của Lưu Bị, bất đắc dĩ phải hàng Tào Tháo, nhưng lại ra điều kiện nếu được tin Lưu Bị ở đâu sẽ về theo Lưu Bị. Tào Tháo ưng thuận, sau Quan Vũ được tin Lưu Bị còn sống ở chỗ Viên Thiệu, bèn đưa hai chị tới tìm. Tương truyền Tào Tháo muốn giữ Quan Vũ nên không cấp văn thư đi đường, vì thế Quan Vũ bị các tướng giữ ải của Tào Tháo ngăn trở, phải chém sáu người vượt qua năm cửa ải mới đi thoát được.

393. Chân Sinh

 (Chân Sinh)

Giả Tử Long là sĩ nhân ở Trường An (tỉnh Thiểm Tây) tình cờ qua nhà hàng xóm gặp một người khách phong thái tiêu sái thoát tục, hỏi thăm thì biết là Chân sinh. Giả rất hâm mộ, hôm sau tới đưa danh thiếp ra mắt, lại gặp lúc Chân sinh đi vắng. Ba lần tới đều không gặp, bèn sai người rình chờ lúc có nhà về báo, lại tới xin gặp. Chân sinh lánh mặt không ra, Giả vào tìm mới chịu ra gặp, ngồi gần nhau trò chuyện, cùng mừng rỡ là gặp kẻ tương tri. Giả bèn về nhà trọ sai tiểu đồng đi mua rượu. Chân lại mạnh rượu, khéo đùa giỡn, hai người rất vui vẻ. Rượu gần hết, Chân mò trong tráp lấy ra đồ dùng uống rượu, thì là một cái bình ngọc không đáy, đặt chén không vào, cái chén chợt đầy ắp rượu, rồi múc ra đổ vào bầu rượu, mãi vẫn không hết. Giả lấy làm lạ, năn nỉ xin học phép lạ ấy. Chân nói “Ta không muốn cho người khác thấy, ông không có chỗ nào kém cỏi, chỉ là lòng tham chưa hết mà thôi. Đây là phép thuật của nhà tiên, làm sao dạy được?”. Giả nói “Oan cho ta quá! Ta có tham lam gì đâu, chỉ tình cờ nảy lòng mong muốn thôi, thôi từ nay trở đi xin cam phận nghèo”, hai người cười rộ rồi chia tay.

Từ đó thường qua lại với nhau, kết bạn quên cả hình hài. Mỗi khi thiếu thốn, Chân lại lấy một viên đá đen ra, thổi vào rồi niệm thần chú, chà xát lên gạch ngói, gạch ngói lập tức hóa thành bạc trắng xóa, đưa tặng cho Giả, nhưng cũng chỉ vừa đủ chi dùng, không mấy khi thừa. Giả cứ xin thêm, Chân nói “Ta đã nói ông tham, bây giờ thì sao, bây giờ thì sao?”. Giả nghĩ hỏi thẳng quyết không được, phải nhân lúc Chân say ngủ, đánh cắp viên đá mới xong. Một hôm, hai người say rượu đã đi nằm, Giả lén dậy lục lọi túi Chân, Chân biết được nói “Anh thật là không còn lương tâm, không thể ở chung được”. Rồi từ biệt, dọn đi ở chỗ khác. Hơn năm sau Giả dạo chơi bên bờ sông, nhìn thấy một viên đá trong suốt giống hệt viên đá của Chân, bèn nhặt lấy giữ gìn như của báu. Qua vài hôm Chân chợt tới, buồn rầụ như đánh mất vật gì Giả hỏi han, Chân đáp “Viên đá ông thấy trước đây là đá điểm kim của tiên. Trước ta kết giao với Bão Chân tử, ông ta thương ta biết giữ phận nên tặng cho, vừa rồi say rượu làm rơi mất, bấm độn thì biết đang ở chỗ ông, nếu có thể trả lại cho nhau, thật không dám quên ơn”, Giả cười nói “Ta bình sinh không dám lừa dối bạn bè, đúng như ông bói đấy. Nhưng biết Quản Trọng nghèo mà không làm được như Bão Thúc Nha* bây giờ ông định làm gì?”. Chân xin tặng trăm đồng vàng, Giả nói “Trăm đồng vàng không phải ít, nhưng truyền cho ta câu thần chú đã, tự ta điểm kim một lần thử xem, thì không tiếc gì nữa”.

*Biết Quản Trọng… Bão Thúc Nha: Quản Trọng và Bão Thúc Nha là người thời Xuân thu, chơi thân với nhau. Quản Trọng có tài nhưng nhà nghèo, đi buôn chung với Bão Thúc Nha, khi chia lời thường lấy phần nhiều hơn. Có người cho Quản Trọng là tham, Bão Thúc Nha nói đó là vì Quản Trọng nghèo, cần tiền nuôi gia đình chứ không phải là tham.

Chân sợ Giả nuốt lời, Giả nói “Ông là tiên mà không biết xưa nay Giả Mỗ không bao giờ thất tín với bạn bè à?”. Chân bèn truyền cho câu thần chú, Giả ngoái lại định mài lên một hòn đá to, Chân nắm khuỷu tay kéo lại không cho thử. Giả bèn cúi xuống nhặt một mảnh ngói đặt lên phiến đá giặt áo nói “Bấy nhiêu thì không nhiều chứ?”, Chân ưng thuận. Nhưng Giả không mài viên đá điểm kim lên mảnh ngói mà lên phiến đá giặt áo, Chân biến sắc, định giật lấy viên đá thì phiến đá giặt áo đã biến thành khối bạc ròng. Giả trả lại viên đá, Chân than “Số kiếp đã như thế, còn nói gì nữa? Đem phúc lộc sai trái tới cho người ắt bị trời phạt, nếu ông muốn cho ta được thoát thì xin phân phát số tiền này cho nhiều người, có được không?”. Giả đáp “Sở dĩ ta muốn có tiền là không phải để hưởng riêng một mình, ông vẫn coi ta như hạng bo bo giữ của à?”, Chân mừng rỡ chào đi. Giả được tiền vừa đem cho vừa đi buôn, không đầy ba năm đã cho hết số tiền có được. Một hôm Chân chợt tới, nắm tay Giả nói “Ông thật là người tín nghĩa, sau khi chia tay lần ấy Phúc thần tâu với Thượng đế nên ta bị xóa tên khỏi sổ tiên. May là được ông rộng rãi bố thí, đến nay cũng đủ công đức để chuộc lỗi rồi. Xin ông gắng thêm, đừng bỏ phế”.

Giả hỏi Chân giữ chức ở ty tào nào trên trời, Chân đáp “Ta là hồ tu tiên đắc đạo, xuất thân hèn mọn, không kham được chuyện phiền nhiễu, nên bình sinh chỉ giữ phận, không dám nhận chức tước gì”. Giả mời rượu, hai người lại cùng nhau ăn uống vui vẻ như trước. Đến năm Giả hơn chín mươi tuổi, thỉnh thoảng hồ vẫn ghé chơi.  Mỗ ở huyện Trường Sơn (tỉnh Sơn Đông) làm nghề bán thuốc giải độc, cho dù nguy cấp tới mức nào cứ uống thuốc của y cũng sống. Nhưng y giữ kín bài thuốc, họ hàng thân thích cũng không truyền cho. Một hôm gặp tai bay vạ gió bị bắt, người em vợ mang cơm vào trại giam, lén trộn thuốc độc vào, ngồi chờ y ăn xong mới nói. Y không tin, nhưng giây lát thấy bụng đau quặn lên, mới hoảng sợ chửi lớn “Thằng súc sinh đi mau, trong nhà tuy có thuốc giải độc, nhưng chỉ sợ đường xa không trở lại kịp, mau mau vào thành tìm lấy một bó dây tơ hồng và một chén nước trong, đi mau lên!”. Người em vợ nghe lời, tìm được các thứ tới thì y đã nôn mửa gần chết. Vội đổ thuốc cho, lập tức đỡ ngay, bài thuốc ấy từ đó mới được truyền ra. Chuyện này cũng giống như việc hồ giữ kín viên đá vậy.

394. Ông Thang

(Thang Công)

Ông Thang tên Sính, đỗ Tiến sĩ năm Tân sửu. Mắc bệnh gần chết, chợt thấy hơi nóng dưới chân cứ lan dần lên trên, lên tới đùi thì chân chết, lên tới bụng thì đùi chết. Nhưng lên tới ngực thì tim chưa chết ngay, phàm những chuyện lúc còn là trẻ con tới những chuyện nhỏ nhặt đã quên từ lâu đều theo máu trong tim kéo về, dâng lên từng đợt từng đợt như thủy triều. Nếu là chuyện hay thì thấy bình tĩnh yên ổn, nếu là chuyện dở thì thấy áy náy hối hận, như dầu sôi trong vạc, khó chịu không sao nói ra thành lời được. Như còn nhớ lúc bảy tám tuổi có bắt một con sẻ nhỏ rồi giết, chỉ một việc ấy thôi mà thấy máu trong tim dâng lên ào ào khoảng ăn xong bữa cơm mới hết. Cứ thế tất cả mọi chuyện đã làm trong đời lần lượt hiện về xong, mới thấy làn hơi nóng lan qua cổ họng dâng lên óc, thoát ra khỏi đỉnh đầu bốc ra ngoài như hơi nước sôi trên nồi cơm. Qua vài mươi khắc thì hồn lìa thất khiếu, rời xác mà đi. Nhưng lại bơ vơ không biết đi đâu, cứ lang thang trên đường. Chợt có một người to lớn đi tới, cao hơn tám thước, bắt ông cho vào tay áo. Vào bên trong thấy da thịt gồ ghề, có rất nhiều người đều tỏ vẻ buồn bã, không sao thoát được. ông sực nghĩ chỉ có Phật mới có thể giải nạn được, bèn niệm Phật hiệu, được ba bốn tiếng thì rơi ra khỏi tay áo, người to lớn lại bắt lấy cho trở vào, ba lần bỏ vào ba lần rơi ra, người to lớn bèn bỏ đi. Ông đứng một mình ngẩn ngơ, còn chưa biết nên đi đâu. Lại nghĩ Phật ở phương tây, bèn đi về phía tây.

Không bao lâu thấy bên đường có một nhà sư ngồi xếp bằng, bèn tới vái lạy hỏi đường. Nhà sư nói “Phàm sổ sinh tử của kẻ sĩ nhân thì do Văn Xương Đế quân và đức Khổng thánh giữ, phải do hai nơi ấy gạch tên mới có thể đầu thai được” ông hỏi hai nơi ấy ở đâu, nhà sư chỉ đường, ông vội đi mau. Không bao lâu thì tới miếu Khổng tử, thấy đức Tuyên thánh đang ngồi quay mặt về phía nam, bèn vái lạy cầu khẩn. Đúc Tuyên thánh nói tên ông bị sót nhưng vẫn có ở chỗ Đế quân, lại chỉ đường cho. Ông lại đi tiếp, thấy một nơi điện gác như phủ đệ của bậc vương giả, khom người bước vào quả có một người dáng mạo giống hệt như Văn Xương Đế quân mà người đời vẫn truyền tụng, bèn quỳ xuống khẩn cầu. Đế quân xem lại sổ sách rồi nói “Ngươi thành thật ngay thẳng, lẽ ra có thể sống lại, nhưng thân xác đã nát rồi, không phải Bồ Tát không ai giúp được”. Rồi chỉ đường bảo đi mau, ông vâng lời lên đường. Trong giây lát thấy một nơi rừng trúc san sát, điện gác rục rỡ bèn bước vào. Thấy Bồ Tát tóc búi cao trang nghiêm, mặt như vầng trăng rằm, cầm cành dương tẩm nước phép xanh biếc khói vờn. Ông kính cẩn cúi đầu vái lạy, thuật lại lời Đế quân. Bồ Tát nói là khó, ông năn nĩ mãi không thôi. Bên cạnh có vị Tôn giả bẩm xin Bồ Tát dùng đại pháp lực, nhúm đất làm thịt, lấy cành dương liễu làm xương. Bồ Tát theo lời, bẻ cành dương trong tay nhúng vào bình ngọc đựng nước phép, nhào đất sạch lấy bùn làm xác ông, rồi sai Đồng tử đưa về nhà, xô cả vào quan tài. Người nhà nghe trong quan tài có tiếng rên rỉ cựa quậy hoảng sợ kéo nhau tới đỡ ông ra, thì đã khỏi bệnh. Tính lại thì ông chết đã bảy ngày rồi.

395. Nhà Buôn Họ Vương

 (Vương Hóa Lang)

Ông Mỗ bán rượu ở Tế Nam (tỉnh thành Sơn Đông) sai con thứ là Tiểu Nhị qua Tế Hà đòi nợ. Nhị ra cửa tây thành, gặp anh là A Đại. Lúc ấy Đại chết đã lâu, Nhị kinh ngạc hỏi “Anh làm sao lại tới được đây?”. Đại đáp “Dưới âm phủ có một cái án còn nghi ngờ, phải có em đi làm chứng một chuyến”. Nhị tỏ vẻ bực dọc cười khẩy, Đại chỉ một người mũ đen phía sau nói “Sai dịch đang ở đây, chúng ta được tự do sao?”. Rồi lấy tay vẫy, Nhị bất giác đi theo, suốt đêm đi gấp tới dưới núi Thái Sơn. Chợt thấy một nơi công thự, vừa định kéo nhau vào, thấy mọi người ồn ào đổ ra. Người áo đen chắp tay hỏi thế nào rồi, một người đáp “Không cần vào nữa đâu, đã xét xử được rồi”. Người áo đen bèn thả Nhị bảo về. Đại lo cho em không có tiền đi đường, người áo đen nghĩ ngợi một lúc lâu, rồi dẫn Nhị đi. Được hai ba mươi dặm vào thôn, tới dưới chái một nhà nọ, dặn rằng “Nếu có người ra, cứ bảo đưa về, nếu họ không chịu, ngươi cứ nói là Nhà buôn họ Vương dặn thế”, rồi đi.

Nhị nhắm mắt chết cứng ở đó, đến sáng chủ nhà ra thấy người chết ngoài cổng hoảng sợ, hồi lâu thì Nhị sống lại. Chủ nhà vực vào đổ cháo cho, Nhị mới nói làng xóm quê quán, xin cho tiền về. Chủ nhà ngần ngừ, đến khi Nhị nói như lời người mũ đen dặn thì vô cùng hoảng sợ, vội lấy ngựa đưa Nhị về. Tới nhà, Nhị trả lại tiền phí tổn thì không chịu lấy, hỏi nguyên do cũng không chịu nói, rồi chào mà về.

Theo dõi
Thông báo của
0 Góp ý
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận