Ông già hai với vẻ mặt đăm chiêu, mắt cứ nhìn trầm trầm vào thằng bảy rồi ngả lưng vào vách đưa tay lên bấm quẻ. Chợt đôi mắt ông sáng lên một tia hy vọng.
Ông gật gù tỏ vẻ vừa ý lắm.
– Cuối cùng cái gì đến nó cũng đến.
Ông già tư và ông chú tám mặt ngơ ngát nhìn, chưa kịp hỏi ông già hai cụ thể là gì thì ổng đã đưa tay lên khất ngan.
– Phàm vạn vật trên đời muốn tồn tại được thì đều phải tuân theo một quy luật tương sinh, tương khắc. Có sinh mà ko có khắc thì tràn lan, có khắc mà ko sinh thì tận diệt.
Nếu tạo hóa đã tạo ra thứ gì đó thì chắc chắn cái khắc chế nó cũng đc sanh ra, chỉ là vấn đề thời gian thôi. Chúng ta hãy ngồi yên mà chờ đợi, cứ để mọi chuyện thuận theo lẽ tự nhiên của nó.
Có lẽ ông già tư và ông chú tám cũng phần nào hiểu được ý của ông già hai nên cũng ngồi im lặng. Chợt thằng bảy nó hỏi.
– Ông hai ơi, ông kể cho con nghe chuyện ngày xưa ông bà mình lúc mới về đất này được ko ông?
Ông già hai mĩm cười nhìn thằng nhỏ với ánh mắt hiền từ, dường như lúc này ông đang kỳ vọng ở nó điều gì đó rất lớn.
– Ờm được, được chứ. Kể cho bây nghe để bây sau này còn biết mà liệu nữa.
– Liệu gì hả ông hai?
Thằng bảy hỏi với vẻ mặt hoang mang. Ông già hai vuốt đầu nó rồi nói.
– Rồi cái gì đến cũng sẽ đến thôi. Giống như câu chuyện 40 năm về trước.
Nói đến đây, ông già hai đưa tay lên kéo một hơi thuốc thật sâu rồi phả vào không gian một làn khói trắng xóa mờ mờ ảo ảo với bao ký ức ùa về.
Ngày ấy khi nhận lệnh đức phật Thầy Tây An đi khai hoang mở đất dần về vùng tây nam này, ban đầu người đi rất đông, cả thảy chừng mấy chục hộ nhà.
Khi mới đến cái nơi khỉ ho cò gáy này, không ai biết đây là đâu và tên gì.
Bởi vì chỉ lần lần theo sông nước mà đi, đến đâu thấy địa thế tốt thì cắm dùi tại đó.
Nhớ lúc đó chinh chiến loạn lạc, bà con thì tay chỉ có mấy cây dao, cây phảng. Thú hoang thì phải nói nó đi theo bầy, giờ là ít chứ ngày xưa đất này cợp beo rất nhiều.
Nhà ở phải dừng vách thật kiên cố, muốn nuôi heo thì phải đốn cây để nguyên nhánh um tùm rồi dựng xung quanh chuồng y như cái ổ chim.
Chỉ chừa một lổ nhỏ để cho thức ăn vào bởi vì họ sợ cợp phá chuồng bắt heo.
Nói tới đây thằng bảy hỏi với vẻ hứng thú
– Vậy có bao giờ cợp nó vào đc thành công ko ông?
– Được chứ.
– Nó vào bằng cách nào?
– Cợp ngày xưa ở đây có con dài ba thước. Nó chỉ cần lấy đà là có thể nhảy qua hàng rào cao hơn đầu người.
– Như thế mik phải chịu thua nó sao ông, để nó ăn heo mik nuôi sao?
Ông già hai cười khà khà đưa tay vuốt chòm râu mép, nhìn có vẻ đắc ý lắm. Ổng lắc lắc đầu.
– Không…. Nếu là như vậy thì ta lời rồi.
Thằng bảy ngây người ra ko hiểu gì hết, biết nó đang ngơ ngát, ông già hai nói tiếp.
– Hổ nó có tính linh, nên rất khôn, nhưng dù sao đi nữa nó cũng chỉ là súc vật thì làm sao qua được con người. Tuy nó vào được, nó được một bữa no say, nhưng một khi nó đã ăn no thì ko thể nào nhảy nổi ra khỏi chuồng được nên bị nhốt lại ở đó.
Bà con nhân cơ hội đặt bẫy lưới ở ngoài rồi khoét đường dụ nó ra, kết liễu nó.
Thằng bảy nghe đến đây há hóc mồm, nó ko ngờ được tại mảnh đất nó đang sống, ngày xưa lại có những chuyện li kì đến thế.
Vốn da cợp là hàng cực phẩm, đem đổi cho mấy tai hội đồng thì cũng đủ gạo cho xóm ăn cả tháng. Chưa kể nào là nanh hổ, xương để nấu ca.o…..rất có giá trị.
Nhắc đến chuyện bắt hổ, ông già tư mới nhớ lại.
– À anh hai, anh còn nhớ vụ ở nhà bảy Thiêu không?
– Ờmm vụ con độc nanh đó hả.
– Ừm
– Độc nanh, là con gì vậy ông hai.
Thằng bảy ngạc nhiên hỏi.
Ông già hai cầm điếu thuốc dụi cho tắt rồi mới trả lời.
– Ờm nó là con cợp chúa của cái đất này ngày trước. Vùng này rất nhiều cợp, nhưng con nào cũng chạy mặt nó.
– Sao vậy ông hai?
– Tại vì nó to lắm, lại rất thông minh, hơn hẵn mấy con cợp thường nên đất của nó ko ai dám bén mãn bước vào. Tao còn nhớ trong một lần nó xuống sông bắt cá xấu, quật lộn dí con sấu bự lắm nên bị rẫy một cái răng nanh. Cái tên độc nanh bắt đầu từ đó.
– Trời ơi, nó bắt được cả cá xấu luôn hả ông hai.
– Ừm, tao là người từng nhiều lần theo dõi nó nên tao biết rất rõ. Con sấu đó tệ gì cũng 200 ký nhưng nó cũng phải chịu thua con độc nanh này.
– Vậy rồi nó có hại dân làng mình ko ông?
– Có, cả cái xóm này ngày xưa ko biết đi bao nhiêu cái mạng rồi. Bà con sợ nó đến nổi ban đêm ko ai dám bén mãn ra đồng, vừa nhá nhem tối là đã khóa cửa cẩn thận. Còn ban ngày muốn lên rừng phải đi theo đoàn năm bảy người, dắt chó theo để nó đánh hơi.
Tao nhớ rất rõ, cứ hễ vài ngày là có người mất tích, lên rừng tìm thì chỉ thấy còn lại đống đồ lòng ướt át với mớ vải vụn.
Mấy nhà nuôi heo thì ko dám ngủ, cứ có người thay phiên nhau thức mà canh chừng.
Đôi khi sáng ra thấy toàn dấu chân cợp đi xung quanh chuồng.
Mỗi một tháng, nó chỉ đến duy nhất một lần, đó là vào đêm trăng sáng nhất.
– Vậy rồi sao ông hai, mình có bắt được nó không?
Ông già hai cười lên khoái chí lắm
– Kakaka…. được! Được chứ. Mày quên tên tao là ông hai cợp à. Chính tao là người bắt nó.
Thằng bảy ồ lên một tiếng
– Mà làm sao ông bắt được con cợp to vậy.
– Chuyện này tao cũng ko biết nói sao, có lẽ hôm đó là ngày tận số của nó.
Ông già hai rót thêm ly trà nóng đưa lên miệng trong sự chờ đợi của thằng bảy, ko để nó chờ lâu, ông già hai tiếp lời.
– Hôm đó sau mấy lần rìn hụt, để nó chạy thoát. Tao với mấy anh em mới rủ nhau nhậu ngoài miếu.
Lúc đó đâu độ canh hai, tự nhiên mấy con chó đầu xóm nó chu lên ông ổng , rồi tiếng con heo la thất thanh từ nhà ông Bảy Thiêu. Biết có biến tụi tao chạy qua, đi vội ko đem đồ nghề gì hết.
Đi qua bên đó thấy bà con đốt đuốc đứng xung quanh chuồng heo, vài người cầm cây ném vào trong rồi la hét xua đuổi.
Nhìn dấu chân ngoài chuồng biết ngay con độc nanh đã đến, tao kêu ông bảy chỉ chổ cửa chuồng, rồi kiếm cho tao khúc tre thật to.
Xong tao kêu bà con tránh ra xa, đứng trước cửa chuồng tao nói lớn giọng vô.
Bớ con nghiệt súc kia, nếu mày đã mang danh là chúa đất này rồi thì có gan mà ra đây đánh với tao một trận.
Vừa dứt câu, một tiếng rầm lớn từ trong vọng ra, bà con ai nấy đều sợ chạy có cờ. Riêng tao đứng thủ thế, con cợp vừa phóng ra theo hướng cửa, tao nhanh tay né sang một bên, cầm khúc tre tươi quánh mạnh lên tử huyệt của nó chính là đầu mũi. Con cợp ngã sang một bên run rinh đất, máu từ mũi và họng bắt đầu trào ra. Nó run lên từng hồi rồi chết tại chổ.
Từ đó tên tao nổi danh khắp vùng, cái tên hai cợp được bà con phong tặng.
Thật tình mà nói nghe mấy ông già xưa kể chuyện là mê mệt, ngồi nghe ko dám chợp mắt sợ bỏ qua đoạn hay. Thằng bảy nãy giờ nó ko ngừng phấn khởi khi ông già hai vừa kể vừa múa mấy tay chân diễn tả theo.
Xong ổng lấy trong túi ra một cái túi vải đỏ rồi móc ra một vật gì đó như cái lưỡi dao.
– Đây bây coi đi, đây là cái nanh còn lại của nó.
Thằng bảy đưa hai tay cầm lấy cái nanh, nó soi rất kĩ vì đây là lần đầu tiên nó thấy nanh của cợp. Cái nanh dài độ nữa gang tay, cong như hình lưỡi liềm.
– Sao nó lạnh ngắt vậy ông hai?
– Nó lạnh sát khí. Tao giữ nó lại để phòng thân, vì cái thứ này nếu của con cợp càng già, càng dữ thì khả năng trị tà càng cao. Mấy tay hội đồng hùa tao bán lại giá cao, có ông trả cả ngàn giạ lúa (20 tấn) nhưng mà tao ko đổi.
Wa… Thằng bảy thốt lên. Hôm nay quả thật là một ngày đặc biệt với nó, bởi vì lần đầu tiên trong đời nó được biết nhiều câu chuyện li kì ngay tại mảnh đất nó đang sống. Ko khỏi phấn khích, nó hỏi tiếp.
– Vậy còn chuyện con quỷ Hầu kia? Ông hai hãy kể luôn cho con nghe đi, thích quá.
Ông già hai phì cười, đưa tay vào túi móc ra cái bọc đựng mấy điếu thuốc rê, cầm lên se se châm lửa kéo một hơi dài nhắm nghiền đôi mắt già nua.
– Từ từ…..
Ông già hai phả vào không gian một luồng khói trắng xóa, đôi mắt mơ màng nhìn ra phía đầu sông. Giữa làn khói ấy, một câu chuyện hãi hùng của 40 năm về trước bắt đầu ngược thời gian ùa về……
Sáng hôm đó, tại tổ đình của đạo Bửu Sơn Kỳ Hương, đức phật thầy Tây An ngồi tại chánh điện, xung quanh có rất nhiều tín đồ ngồi nghe giản đạo. Phật thầy đứng lên, giọng nói trầm vang.
– Các đạo vất vã nhiều rồi. Cũng nhờ chúng ta trên dưới một lòng mà cùng nhau khai phá nên một phần của Bảy Núi hoang vu rừng rú ngày trước nay đã thành đồng thành ruộng. Cuộc sống đỡ cơ hàn.
Nay ta nhìn thấy vùng đất Tây Nam này rất hưng thịnh, là phần đuôi Kim Long nhưng còn nhiều nơi hoang vắng quá. Các đạo nên chia ra mà tìm đường khai phá, để con cháu chúng ta sau này có đất đai mà ở, mà lặp nghiệp, đứng lên chóng giặt. Rồi đến lúc ta cũng về chầu Ngọc Đế, ko thể mãi ở đây kề bên các đạo được, nên sau này các đạo phải tự lo lấy, nên nhớ rằng giáo lý của ta vẫn còn giá trị ngàn năm, các đạo hãy giúp ta rao truyền nó đi khắp nơi để cứu đời lập Hội Long Hoa. Ấy là sứ mệnh của ta đã hoàn thành rồi…
Sau hôm đó, ai về nhà nấy mà tất tật chuẩn bị đồ đạc lên đường xuôi dòng Hậu Giang đi mở đất.
Người người tấp nập, ghe nối đuôi ghe nhộn nhịn cả khúc sông. Đến những nhánh sông nhỏ, họ bắt đầu tẻ ra từ từ. Cũng vì đó mà gia đình ông già hai phiêu bạt về cái đất tận cùng này.
Ông bà xưa có một tập quán, cứ hễ đến đâu mở đất thì việc trước tiên họ phải làm đó chính là lập bàn thờ thắp nhang xin phép đất đai, những người khất mặt khuất mài rồi mới động thổ.
Cha của ông già hai là ông Thới, người dẫn đầu đoàn khai phá. Ông cho lập một đàn lễ tuy đơn sơ nhưng cũng đủ đầy, nào là trà, rượu, gạo, muối cùng với một ít trái cây rừng và hoa dại. Thắp ba cây nhang giọng kính cẩn thưa.
– Con tên là Trần Văn Thới, năm nay tròn lục tuần. Chúng con tuân theo lời đức phật Thầy Tây An, đạo Bửu Kỳ xuôi về vùng này khai phá. Kính mong chư vị chứng cho con sống đất này, chết cũng nằm tại đất này, con cháu đời đời được phép gọi đây là quê cha đất tổ.
Sau khi làm lễ xin phép xong, mọi người bắt tay vào việc khai phá.
Nào là người đốn cây chặt nhánh, nào là người phát sậy nhổ năng, đắp đặp be bờ, dựng nhà dựng cửa. Công việc ban đầu có vẻ thuận lợi lắm, ko lâu sau đó một mẫu đất chừng 200 công đã nên ruộng đồng. Bà con phấn khởi lắm.
Nhưng họ nào đâu hay, mối nguy hiểm đang ngày một cận kề vì họ đang lấn sâu vào đất của quỷ.
Hôm ấy như thường nhật, gia đình chú sáu gồm có năm người lớn nhỏ ra đồng nhổ năng.
Đột nhiên gió lồng lộng nổi lên, chổ mấy thằng con chú sáu đứng cách bìa rừng ko xa.
Thằng con thứ năm tên là Đen, nó đang đứng bỗng thấy dáng của một bà già. Bà ta đang nằm dưới một góc tràm to đưa tay vẩy vẩy nó lại.
Mặt dù môi bà ta ko cử động nhưng trong không gian hình như văng vẳng tiếng òm òm của bà ấy gọi.
– Con….. Ơi……! Đến đây giúp già với, già bị lạt đường……..!
Tiếng kêu gọi vô cùng quỷ mị. Thằng năm liền chột dạ mắc bẫy. Mặc dù biết làm sao có thể một bà già lại xuất hiện giữa vùng rừng rú hoang vu thế này, nhưng nó cũng liều mình chạy lại xem sao, lỡ như đó là một bà lão cần giúp đỡ thật.
Mấy thằng anh nó đang đứng thì thấy nó chạy một mạch vào rừng dù có hỏi lớn cở nào nó cũng ko trả lời gì hết. Thằng anh ba nó mới nói.
– Ôi chắc là bị tào tháo dí rồi, kệ nó đi anh em mik làm sớm nghỉ sớm.
Rồi mấy anh em bắt tay vào làm tiếp ko ai để ý đến nó nữa. Chợt lúc lâu sau nghe một tiếng la thất thanh tưởng chừng như vô cùng đau đớn từ phía rừng vọng ra.
– Thằng năm! Phải rồi, là giọng của thằng năm. Mau đi cứu nó.
Vừa dứt lời bốn người chạy thẳng về phía rừng. Đến nơi thì hỡi ôi, ông chú sáu té sỉu.
Mội thứ đã muộn màng, mấy anh em nó đứng như trời trồng ko thằng nào nói nên lời. Bởi vì trước mắt bọn họ, xá.c thằng năm đang nằm dài với cái ngực bị khoé.t tung ra, trái tim đã bị m.oi từ bao giờ, má.u vẫn còn phún ra từ cái xá.c. Trên gương mặt nó còn in một nét sợ hãi tột độ, đôi mắt trừng ra trợn trồng.
Sau vụ việc của thằng năm. Bà con ai nấy cũng đều lo sợ. Nhiều lời bàn tán ra vào về cái chết kì lạ đó.
Người thì nói là chắc nó bị cợp vồ, người thì cho là bị quỷ nó moi tim….
Trong khi cả xóm đang nhốn nháo, những người lớn tuổi cũng ko thể nào đoán được, đây là lần đầu tiên họ thấy cảnh này.
Ông Thới cha ông già hai mới lên tiếng trấn an bà con.
– Thôi thôi bà con đừng đón già đón non nữa. Theo tôi đây ko phải là do cợp làm đâu. Vì theo bản năng cợp săn mòi thì nó sẽ cắn ngay vào cuống họng. Xác thằng năm ko hề có bất kì vết thương nào do cợp làm cả. Vả lại xung quanh chổ xác nó nằm ko hề có dấu chân cợp.
Trong đám đông, một người đàn bà đứng lên hỏi ông Thới giọng lo lắng lắm.
– Chú Thới ơi ở đây chú là người lớn tuổi nhất, chú nói coi chuyện này là do cái thứ gì làm cho bà con biết đi, bà con lo lắm, ngày nào chưa tìm ra hung thủ thì ai mà dám ra đồng làm việc nữa đây.
– Được rồi bà con bình tĩnh đi. Tôi hứa sẽ sớm làm rõ chuyện này, tạm thời chưa kết luận được là thứ gì đã làm ra chuyện hãi hùng này. Nhưng trước mắt bà con khoan hả ra đồng nữa, tạm thời ai ở nhà nấy vài hôm đi, đợi khi nào có kết quả thì tính tiếp.
Nghe lời ông Thới, ai nấy cũng đều đồng tình.
Kể từ hôm đó, ko một ai dám bén mãn ra đồng.
Thời gian cứ trôi qua, một tháng sau dù đã bỏ công ra tìm kiếm nhưng vẫn ko thể nào biết được hung thủ là ai.
Rồi mọi việc cũng nguôi đi. Thoạt đầu chỉ một vài gia đình kéo nhau ra đồng làm trở lại, mặc dù ông Thới có ngăn cản kêu gán đợi thêm một thời gian nhưng họ ko nghe. Rồi thấy cũng chẳng sao nên bà con quyết định đi ra đồng canh tác lại bình thường.
Cứ tưởng cuộc sống bình yên đã trở lại, nào ngờ vào cái đêm định mệnh, có lẽ đến bây giờ nó vẫn còn ám ảnh trong tiềm thức của người dân nơi đây.
Hôm ấy khi cái nắng chiều vừa chợp tắt, độ khoảng 6 giờ tối bà con lên đường về nhà.
Đoàn chừng 7 người đang đi thì bất chợt trời đổ cơn mưa rất lớn, sấm sét cũng bắt đầu xé toạt bầu trời. Cả đám người phải chạy vào cái chòi dựng tạm ngoài bìa rừng để trốn mưa. Cơn mưa dai dẳng, đến khi nó tạnh thì cũng đã gần 8 giờ tối.
Tiếng ếch nhái trên cánh đồng vừa phát cỏ kêu ộp oạt ộp oạt.
Lúc này trong đám người, thằng Lĩnh tức ông già tư, con ông sáu Sơn tự nhiên cảm thấy trong lòng bất an. Nó mới nói với mấy người ở đó.
– Mấy anh em có thấy cảm giác gì lạ ko?
Thằng Bình tức ông chú 8, con trai út ông Thới cũng có mặt ở đó.
– Ý anh tư là sao, có gì kì lạ hửm?
– Thì mấy anh em coi đi, từ lúc mình về cái đất này đến giờ có cơn mưa nào lớn như vậy đâu. Hơn nữa nay cũng tháng 11 âm rồi còn gì.
– Ừ lạ thật. Mà thôi về nhà mấy ông ơi, tự nhiên thấy ớn ớn sao ấy.
Nói rồi cả đám khẩn trương quay về, hình như ai cũng sợ một điều gì đó trong lòng. Vừa bước ra khỏi cái chòi, chợt con chó của thằng Lĩnh dắt theo bắt chuột nó cứ đứng quay về hướng bìa rừng mà sủa in ỏi.
Vừa sủa, con chó vừa ngừ ngừ một cách dữ tợn, đôi mắt cứ dè chừng theo những tán tràm cao ngút đang đun đưa. Cả bọn nhìn theo thì chả thấy cái vì bởi trời tối thui. Thằng Lĩnh mới quát lớn, Phèn! Mày sủa cái gì vậy, mau về thôi.
Con chó vẫn ko ngừng sủa, đám thằng Lĩnh lúc này bắt đầu cảm thấy lo lắng đứng yên ko biết làm gì. Mọi thứ tụi nó nhìn thấy chỉ trong phạm vi chừng 5 thước dưới ánh sáng yếu ớt của mấy cây đuốc.
Chợt tụi nó thấy trên ngọn của cây tràm to trước mặt có cái gì đó cứ đun đưa mặc dù trời đang đứng gió. Những giọt nước đọng trên lá do cơn mưa lúc nảy rơi xuống xào xạc.
Cả đám ko rời mắt, con chó đột nhiên lao đầu chạy thẳng về phía gốc tràm nhìn lên sủa liên tục.
Lúc này nhìn kĩ, thì thấy trên đọt tràm có thứ gì đó đo đỏ như hai hòn than đang cháy, chúng cứ trầm trầm như đang hướng về tụi thằng Lĩnh.
Vụt một cái, một bóng đen thân hình to lớn lao từ đọt tràm thẳng xuống chổ con chó. Nó đưa tay bắt lấy con chó xé toạt ra rồi vứt sang một bên.
Cảm đám hốt hoản la hét rồi bỏ chạy, nhưng ko may một thằng trong đám bị cái thứ kia nó nắm chân kéo lại.
Lúc này nhìn kĩ vào cái hình thù quái dị ấy mới thấy rõ, nó giống như một con khỉ, nhưng thân hình to lớn cao hơn đầu người, đôi tay dài lêu nghêu với móng sắc nhọn.
Toàn thân nó tỏa ra khói đen, đôi mắt đỏ trừng trừng như hai hòn than, cái miệng rộng và dài như chó sói đầy răng nanh ở trỏng.
Nó nhìn thẳng vào đám thằng Lĩnh cất lên một tràn cười đầy quỷ quái.
– Hà hà hà….. Há….ha ha ha…….
Rồi chúng bây… Từng thằng. Phải. Chết…….
Cái giọng âm vang trong gió như từ cõi chết vọng về. Vừa nói xong nó đưa bàn tay đầy vuốt đâm thẳng vào ngực thằng thanh niên kia. Nó gào thét đau đớn, má.u từ đó phún ra.
Con quái kia giựt mạnh, lòn.g ngực thằng ấy bị bu.n toạt ra với trái tim đỏ hỏn đang đập thình thịch. Nó đưa tay moi lấy trái ti.m rồi đưa lên miệng nhai một cách ngon lành, xong lè cái lưỡi dài ra lượn một vòng quanh mép liếm sạch máu.
Cảm đám hoàn hồn bỏ chạy hụt mạng. Vừa chạy vừa kêu cứu, thằng Bình chạy trước, cứ ko lâu là nó nghe đằng sau có tiếng một thằng gào thét đau đớn, biết ko thể nào cứu được bọn nó nên cũng đành chạy hụt mạng về nhà báo cho bà con hay.
Đi đoàn 7 người mà về đến nơi chỉ còn thằng Bình và thằng Lĩnh. Tụi nó la hơi hới, bà con lúc này thấy đám thanh niên đi lâu quá chưa về cũng lo, kéo ra đầu sớm ngồi đó chờ chứ ko dám đi tìm. Chợt thấy bóng hai thằng chạy bỏ mạng về phía xóm, mọi người mừng lắm.
Đến nơi tụi nó ngả sang thở hồng hộc, bà con lo lắng hỏi tới tấp.
Có chuyện gì vậy? Sao tụi bây chạy dữ vậy? Sao về trễ quá vậy mấy đứa? Còn mấy đứa kia đâu? Lĩnh con tao đâu….?
Sau một lúc uống miếng nước hoàn hồn. Thằng Lĩnh cố bình tĩnh kể lại mọi chuyện vừa xảy ra.
Người thì đứng như trời trồng, người thì rục xuống tại chổ khóc lóc kêu tên con.
Khung cảnh cái xóm lúc này tang thương làm sao.
Cuối cùng thì họ cũng đã biết, ko cần phải nói gì thêm nữa, ai ai cũng đoán được thứ đó là gì rồi. Không khí lúc này trở nên nặng nề vô cùng, mấy con chim cú ko biết đã đậu trên những tán tràm từ bao giờ. Chúng nó cứ thay phiên nhau cất lên những tiếng kêu ma quái nghe mà rùn mình.
Cù cú… Cú….. Cú………… Cú………
Như một điềm báo tử.
Trở về nhà, ông Thới rầu rĩ thắp nhang lên một cái ban thờ chỉ có một tấm vải trần đỏ. Ấy là cách thờ Tam Bảo của đạo Bửu Kỳ, ko hình, ko tượng.
Sau đó ông ngồi trên bàn nước nói chuyện với mấy người con, trong đó có ông già hai.
– Trong vụ này tụi bây thấy sao? Chứ tao cũng đành bó tay, xưa giờ mới gặp thứ kì lạ như vậy.
Ông già hai nghĩ ngợi gì đó rồi lên tiếng
– Theo con nghĩ đây ko phải dạng tầm thường rồi.
– Trời ơi nhớ lại cảnh tượng ban nảy con còn rùn mình. Thứ đó nữa vượn nữa sói, mình toàn lông lá nhưng nhanh nhẹn vô cùng. Chưa kể nó còn nói được bằng cái giọng như con người. Trời ơi từ cha sanh mẹ đẻ tới giờ mới gặp thứ như vậy.
Thằng Bình vừa kể lại, vừa lắp bắp như nó vẫn còn sợ lắm.
– Tuy là nữa vượn nữa sói, nhưng tao nghĩ nó chắc chắn ko phải là thú đâu.
Thằng em ông hai, ông ba cũng nói thêm
– Vậy ý anh là sao? Chẳng lẽ….
– Đúng! Chắc chắn chỉ thứ đó.
– Nhưng mà từ khi chúng ta về đây tới giờ mọi thứ vẫn yên ổn mà, sao bây giờ nó mới xuất hiện?
Ông Thới lúc này chợt nhớ ra gì đó
– Cũng rất có thể, vùng đất Nam kì này năm xưa vốn là đất phong ấn bảy con chúa quỷ. Theo lời của phật thầy thì khắp nơi trên mảnh đất này đều có tà khí của bọn chúng ẩn náo, nên muốn khai hoang ở đâu, phải trấn yểm tại đó thì mới nên. Tao quên mất điều đó.
– Vậy giờ phải làm sao đây tía?
– Trước mắt ngày mai tao sẽ lập đàn trấn yển thử xem sao.
Xong chuyện, ông Thới dặn dò kỹ lưỡng các con chuẩn bị những gì cho ngày mai.
Rồi mạnh ai nấy về giường ngủ. Đêm đó ông Thới ko thể nào chợp mắt được, trong lòng ông hình như đang có một linh tính gì đó chẳng lành.
Bà Thới biết chồng mình khó ngủ, nên cũng hỏi chuyện.
– Sao vậy ông? Không ngủ sớm đi để mai còn làm.
– Hơizzz….tui ko thể nào ngủ đc bà à. Trong lòng cứ nóng như lửa đốt.
Hiểu được ý ông Thới, bà cũng an ủi chồng mình.
– Sao ông không mời mấy huynh đệ đến đây giúp thử?
Nghĩ ngợi gì đó, ông Thới mới trả lời.
– Huynh đệ còn có việc của họ, tính tui bà cũng hiểu mà. Tui không muốn làm phiền ai. Vả lại đây là sứ mệnh của phật thầy giao phó. Tui là người dẫn đầu đoàn khai mở đất này, tui phải có trách nhiệm bà à. Chỉ tại sơ xuất của tui mà bây giờ đã năm bảy mạng người ra đi rồi.
– Thôi ông đừng có buồn, chuyện này ko ai muốn. Ông cũng tròn trách nhiệm ở đây rồi còn gì.
– Hazz. Tui chỉ sợ, lỡ tui ko may xảy ra chuyện thì ai sẽ gánh vác cái xóm này đây.
Sấp nhỏ còn trẻ quá, nhưng cái thứ mà chúng ta sắp đối mặt nó ko hề đơn giản đâu.
Bà Thới cũng hiểu ý chồng mình, bà thở dài một hơi….
– Hời. Mong trời phật phù hộ cho đạo đồng chúng con được tai qua nạn khỏi.
A Di Đà Phật.
Khi mọi thứ đã đâu vào đấy, sáng hôm sau mọi việc y như dự kiến. Một đàn lễ được bày ra giữa xóm với sự chứng kiến của tất cả bà con.
Ông Thới thắp ba cây nhang khấn trời phật. Xong ông đứng giữa đám đông nói lớn.
– Thưa bà con, đạo đồng đạo hữu.
Hôm nay Thới tôi xin được lập trận trấn yển đất này. Bà con cũng thấy rồi đó, hiện lai lịch con quỷ kia vẫn chưa được rõ ràng, nhưng nó quá lộng hành rồi. Chúng ta không thể để nó tiếp tục hại dân mình nữa. Thới tôi xin hứa, dù có bỏ mạng già này cũng sẽ dốc hết sức bảo vệ bà con. Hoàn thành nhiệm vụ phật thầy giao cho.
Nói xong, ông Thới bắt đầu vào công việc. Đứng trước đàn phép, ông cầm cây viết thấm vào lọ châu sa. Sau đó bắt đầu vẻ những chữ phù một cách uyển chuyển.
Vẽ xong 5 lá phù, ông Thới kính cẩn cầm chúng lên đưa trước mặt, lầm bầm niệm thần chú. Đôi mắt nhắm nghiền, đôi tay già nua run run, mồ hôi trên trán bắt đầu đổ xuống.
Đột nhiên ông mở chừng mắt ra nhìn thẳng vào đạo bùa rồi thổi phù một cái, nếu nhìn kĩ sẽ thấy trong lúc ông Thới niệm thần chú thì toàn thân ông đều bóc khói.
Xong ông lấy 5 lá bùa nhét vào 5 thân tre già đã đục lỗ sẵn. Rồi ông dùng một cây dao nhỏ khắc lên 5 thân tre ấy mỗi cây một dòng chữ lệnh.
Đông phương thanh đế
Tây phương bạch đế
Bắc phương xích đế
Nam phương hoàn đế
Trung ương huỳnh đế.
Mỗi một thân tre ông cầm hai tay dân lên đi vòng vòng bát hương, miệng lầm bầm ko ngừng đọc chú.
Khi đã xong, ông Thới cho năm thằng thanh niên chưa vợ cầm 5 thân tre ấy đem trồng ở bốn hướng của xóm. Riêng thân tre có ghi chữ Trung ương huỳnh đế thì trồng ở trung tâm.
Khi mọi việc hoàn tất, ông già hai tức người con thứ hai của ông Thới mới hỏi nhỏ.
– Tía ơi, tía dùng trận gì vậy tía?
Ông Thới vừa đưa cái khăn rằn lên thấm thấm mấy giọt mồ hôi trên trán, uống hết ly trà ông mới nói.
– Là trận Tứ Phương Ngũ Đế.
Cụ thể đất có bốn phương Đông, Tây, Nam, Bắc. Mỗi một phương có một vị minh đế cai quản và ở trung tâm của bốn phương còn một vị nữa là năm vị. Ta dùng bốn cây tre trồng ở bốn hướng của xóm, mục đích là để nhờ sức mạnh của bốn vị ấy che chở.
Mỗi lá bùa thật chất là lệnh phù tượng trưng cho các vị đó. Nếu xin được lệnh thì chỉ cần cắm nó xuống đất, chổ đó sẽ có binh của các ngài canh giữ, bảo vệ.
Nói rồi, ông Thới tiếp tục bắt tay tiếp vào việc còn lại, đó là trục hồn quỷ.
Ông cho một thằng thanh niên tắm rửa sạch sẽ rồi ngồi lên một tấm chiếu.
Trên đầu nó khoát lên một tắm vải màu đỏ. Miệng ngậm một lá ngải.
Ông Thới cầm một cái chuông đồng có gắng chỉ đỏ, đầu kia của sợi chỉ buộc vào đầu thằng thanh niên đang ngồi đó.
Sau đó ông lấy ba cái hình nhân mặt quỷ, cắt máu của mình cho nhỉu vào nó.
Lặp tức các hình nhân bốc khói, từ chổ những giọt máu ấy bùng cháy lên.
Khi các hình nhân đã hóa ra tro hoàn toàn thì lúc này một tràn cười trong không gian xuất hiện. Mây bắt đầu kéo lại làm âm u cả một vùng.
Bà con lúc này thấy sợ, quấn lấy nhau chấp tay mà niệm phật
Đột nhiên thằng thanh nhiên ngồi đó run lên từng hồi. Nó bắt đầu lắc lư lắc lư toàn thân. Rồi một tiếng cười khúc khích từ sau tắm vải đỏ phát ra.
– Khá kakaka….khá…….
Biết con quỷ đã nhập xác, ông Thới giựt mạnh cái chuông cho sợi chỉ xiếc chặt đầu nó rồi run chuông liên tục. Vong quỷ hú lên nghe chói cả tay, nó cất cái giọng ồm ề về phía ông Thới.
– Thằng già kia, mày ko biết lượng sức ak….
Ông Thới quát lớn.
– Yêu nghiệt phương nào? Tại sao lại tát quái ở đất của ta. Còn ko mau quy phục.
Vong quỷ lại cất lên một tràn cười rùn rợn.
– Khà khà kakaka…. Há ha ha ha….
Ngươi nói sao? Là đất của ai hửm…..?
– Bọn ta từ Thất Sơn xuôi về tận miệt này để khai hoang mở đất theo lời dặn của đức phật thầy. Đất ta mở thì là của ta chứ còn ai nữa?
– Hửm….! Có phải ngươi già quá rồi lú lẫn ko! Ngươi ko nghe đất có thổ công, sông có hà bá hửm.
– Ngươi chỉ là một vong quỷ tầm thường, ngươi chẳng phải thổ công. Khi mới về đây ta đã lập đàn xin phép đất đai rồi mới động thổ. Ấy ko phải việc của ngươi sao ngươi quản!
– Kakaka…. Ngươi sai rồi…. Ta ko phải thổ công, nhưng sẵn tiện ta nói cho ngươi biết, đất này không có thổ công, đất này là đất của ta.
Ông Thới giận dữ cầm chén nước tạt thẳng vào vong quỷ, người nó bốc khói nghi ngút, nó góng lên.
– Ngươi dám….!
– Rốt cuộc thì ngươi là ai?
Vong quỷ cứ đu đưa, một lúc lâu nó mới trả lời ông Thới
– Chắc ngươi có nghe qua vùng đất Lãnh Nam rồi chứ.
Vốn là người tu luyện lâu năm, có sự tìm hiểu về đạo pháp qua các thời kì, nghe đến hai từ Lãnh Nam lặp tức ông Thới hoảng hốt run giọng.
– Chẳng lẽ…ngươi là…
– Không sai! Kakaka……..ta chính là con của bảy quỷ vương thời đó.
Ngày ấy Kim Long Thái Tử hạ thế tiêu diệt cha của ta. Nhưng đó là việc khó thành, cha ta chỉ bị phong ấn. Sự phẫn nộ và thù hận của bọn họ đã sanh ra ta, La Cát Quỷ Hầu.
Cái đất này ta đã ngự hơn vạn năm rồi, ngươi về đây có xin phép ta sao? Lại còn mạnh miệng bảo đất của ngươi à….!
Ông Thới lúc này cũng bắt đầu thấy sợ rồi, biết mình chẳng là gì với Quỷ Hầu. Nhưng cũng cố gắng giữ bình tĩnh để đấu khẩu với nó.
– Nhưng dù sao đi nữa ngươi có cần giết nhiều người một cách dã man như thế ko? Họ là những người dân vô tội, họ biết cái gì.
– Ta là Quỷ từ thời Thượng cổ, vạn năm qua chỉ hấp thu tà khí vùng này mà lớn mạnh, nay có cơ hội thử qua thị.t người thì lẽ nào….. Kakaka……ta còn muốn cả xóm của ngươi chết. Chết hết……! Kakaka…
– Nếu ngươi đã cố tình đuổi cùng giết tận như thế thì đừng trách ta.
Nói là làm, ông Thới nhanh tay cầm lấy cây phất trần mà phật thầy ban tặng để phòng thân lên. Ông quật tới tấp vào vong quỷ, vừa vụt tay ông vừa bắt ấn niệm chú.
Quỷ Hầu rú lên, tiếng kêu nghe rất ám ảnh, nó đưa tay nắm lấy cây phất trần trong tay ông Thới. Lặp tức mọi người đều thấy cái cây đỏ lên như lửa rồi tan biến thành tro. Ông Thới bị phỏng tay nên phải rụt lại thủ thế.
Quỷ Hầu đưa bàn tay lên mặc dù ông Thới cách đó khoảng ba thước nhưng giống như có một bàn tay vô hình trong không gian bám chặt lấy cổ ông rồi nhấc lên cao. Ông Thới vùng vẫy trong đau đớn, bà con chạy tán loạn, các con và bà Thới quỳ hụp xuống cầu xin vong quỷ tha mạng.
Thế nhưng Quỷ Hầu ko ngừng cười khoái chí, tiếng cười thật dã man ăn sâu vào tiềm thức.
Bỗng nó dặn tay một cái, cổ họn.g ông Thới bị b.ẻ gãy ngan, má.u từ họng trào ra, tuyệt khí chết tại chổ.
Quỷ Hầu thoát ra khỏi xác thằng thanh niên, nó hóa thành đám mây đen lao vút về hướng rừng. Tiếng cười man rợ vẫn còn trong gió và lời đe dọa.
– Rồi cả xóm chúng bây, lần lược từng người sẽ giống như thằng già này…. Khà khà kakaka……….khá kakaka…..
Hết tập 3