Chương 17:
Bà Nương nghe chồng nói thì liền hiểu ngay là ông thấy người ta đờn nên cũng ngứa miệng muốn ca, mà sợ bà la vì cái tánh mỗi khi sáp vô là ngồi riết không chịu đứng dậy nên cứ lấp lửng thì liền mở cửa dọn đường. Thầy Năm ngồi ghế sau thấy vậy thì cũng nhoài người nhìn về phía trước, đoạn ông thấy có nhiều người đang đờn ca vui vẻ thì cũng phụ họa theo. Thế là chiếc xe dừng lại ngay chỗ mấy người kia, ngay khi chiếc xe vừa dừng lại thì mấy người đang ngồi đó liền tập trung ánh mắt nhìn vào. Đoạn thấy vợ chồng thầy Tư mở cửa xe bước xuống, thì một người đàn ông độ ngoài sáu mươi đứng dậy trải thêm một chiếc chiếu nữa cho mọi người dạt ra, vừa trải chiếu xong thì ông liền chạy lại tay bắt mặt mừng với thầy Tư mà vừa nói.
” Cha chả, bữa nay ông bà hội đồng ghé chơi thiệt là bà con chúng tui mừng hết sức luôn đó đa. Hồi nãy tui nhìn chiếc xe tui thấy quen quen, cái tui mới nói với mấy đứa nhỏ là xe của vợ chồng thầy hội đồng ghé chơi, dị đó mà mấy đứa nó đâu có tin. Tụi nó nói tui mong thầy hội đồng lung quá nên nhìn xe ai cũng nói là xe thầy Tư hết.”
” Bộ ở làng mình gần đây có nhà thầy nào mới mua xe hơi giống xe của vợ chồng tui hay sao mà bà con nói chú như vậy hả chú Hai.”
Thầy Tư vừa ngồi xuống chiếu vừa hỏi lại ông Hai, ông Hai nghe vậy thì vừa rót nước mời vừa nói.
” Thưa có nhà của ông hội đồng Nghị mới chuyển về làng độ hơn tháng nay. Ổng mua lại cái nhà của thầy Bảy dạo trước thầy bán lại cho ông Hương Chánh Du đó thầy.”
” Có phải là thầy hội đồng Nguyễn Văn Bảy, hồi còn sống chuyên bốc thuốc nam chữa bệnh cho bà con ở xứ này không lấy tiền, sau đó thì cả nhà chết hết chỉ sau một đêm không. ”
Thầy Năm ngồi bên cạnh nghe ông Hai nói đến thầy hội đồng Bảy thì ngờ vực liền hỏi.
” Là ổng đó, ủa mà thầy đây là. Trời đất ơi thầy Năm, nãy giờ tui cứ ngờ ngợ mà không có dám hỏi. Ông hội đồng Nghị ổng mua là mua cái nhà của thầy Bảy hồi xưa đó thầy, nhưng chỉ nghe người ta nói là ổng mua vậy thôi chớ hổng có ở được.”
” Ủa sao lại mua mà lại không ở được, mà không ở được thì mua làm chi, mà ổng mua bao nhiêu chú Hai có biết không. ”
Thầy Năm nghe nói mua mà không ở được thì càng gấp gáp. Ông Hai thấy thầy Năm có vẻ hứng thú với chuyện này thì liền nói.
” Thôi bây giờ vầy, cũng gần tới giờ cơm. Sẵn đây có dịp thì tui mời mấy thầy ghé vô nhà ăn bữa cơm đạm bạc, nhâm nhi ly rượu rồi tui kể cho mấy thầy với bà và cậu đây nghe chơi. Chớ chuyện về cái miếng đất đó thì nó dài lắm, một hai lời nói không có đặng.”
Nói rồi ông Hai đứng dậy đi trước, bốn người thầy Năm nối bước theo sau. Tối hôm đó, sau khi ăn xong cơm chiều thì ông Hai bày ra sân một chiếc chiếu làm bàn nhậu. Nhâm nhi được vài ly thì ông Hai bắt đầu hồi tưởng lại những chuyện ma mị là nguyên nhân của câu chuyện mà kể lại.
Quay trở lại khoảng thời gian hơn mười năm trước, bận ấy ông Hai là người giúp việc thân tín bên cạnh thầy Bảy. Nói là người giúp việc, nhưng thực ra thì ông Hai được thầy Bảy coi như là cha chú trong nhà. Mặc dù mang tiếng là người làm, ấy thế nhưng thầy Bảy luôn tôn trọng ông Hai, thầy chẳng bao giờ có ý nghĩ xem ông Hai là người ở. Ban đầu thì ông Hai chỉ theo chân phụ giúp thầy Bảy trông coi ruộng vườn, dần dà được thầy Bảy dạy cho cầm bánh xe hơi, đặng mỗi khi thầy có việc đi lên Sài Gòn hay đi đâu xa thì ông Hai cầm bánh mà đưa thầy đi. Ngoài ra thầy Bảy còn dạy lại cho ông Hai xem mạch bốc thuốc và vài món nghệ đơn giản như là cúng bái, bắt ma vất vưởng. Sau cái đêm định mệnh cả nhà thầy Bảy chết hết, chỉ còn duy nhất một mình cậu Ba Huy là được thầy Bảy gửi lên Sài Gòn sau đó thì đưa về Gò Công ở với vợ chồng thầy Tư, thì ông Hai được thầy Tư giao lại căn nhà cùng toàn bộ giấy tờ đất đai, vì biết ông Hai theo thầy Bảy từ ngày thầy mới về đây cho đến khi thầy mất ngót cũng gần hai mươi năm. Nay chủ mất mà người thân cũng không còn, hơn nữa vợ chồng thầy Tư nói giàu cũng không giàu gì nhưng nà tiền trong kho bạc không mấy trăm thì cũng tiền triệu. Thành ra thầy tính giao lại ruộng đất cho ông Hai, coi như trả cái ơn và cũng là cái công đặng ông trông coi nhà cửa và mộ phần thầy Bảy.
Vốn ông Hai cũng không có vợ con gì, mà thầy Tư lại cho đến cả trăm mẫu đất thì nhiều quá, lại nghĩ thầy Bảy có ơn với ông, giờ thầy mất nhưng vẫn còn cậu Ba Huy. Thế là ông chỉ xin nhận căn nhà và một ít ruộng, đặng có chỗ chui ra chui vào và nhang khói cho chủ. Còn ruộng thì xin một ít để làm còn có cái mà bỏ bụng. Thầy Tư thấy vậy thì không chịu cứ đòi đưa hết vì ruộng đất của thầy cũng nhiều, sau này cậu Ba Huy hưởng hết thảy chớ vợ chồng thầy cũng không có con cái gì để mà cho thì lấy nhiều làm gì.
Cả hai cứ đùn qua đẩy lại rồi cuối cùng cũng quyết định năm mươi mẫu đứng tên ông Hai cùng căn nhà, còn lại hơn hai trăm mẫu thì đứng tên thầy Tư. Sau lần ấy thì thầy Tư cũng không có về lại, chỉ lâu lâu tới ngày giỗ của thầy Bảy thì tranh thủ về thắp nhang rồi cũng đi, còn tiền tá điền mướn ruộng thì mỗi vụ ông Hai đánh dây thép gửi giấy tờ sổ sách về cho thầy. Nên thành ra những chuyện xảy ra thầy cũng không biết mà ông Hai cũng không nói.
Lại nói về ông Hai, ngày ông nhận căn nhà là đã năm năm sau kể từ ngày thầy Bảy mất. Vốn dĩ ngay từ đầu là để lại cho ông Hai, nhưng mà vì có một mình và hơn nữa ông cũng có qua lại với một bà góa chồng. Mà bà kia thì nhất quyết không chịu về nhà thầy Bảy ở, cứ bắt ông Hai phải sang ở nhà bà vì bà sợ căn nhà đó. Nghĩ đi nghĩ lại ông Hai không biết phải làm sao cho hợp tình hợp lí, thế là ông liền đánh dây thép cho thầy Tư. Trong thơ ông viết.
” Thưa thầy, tui biết vợ chồng thầy thương tui. Cho tui căn nhà của thầy Bảy, dạo trước tui tính không cưới vợ. Nhưng bấy giờ thì tui cũng muốn có đứa con, lại đang qua lại với một cô góa chồng. Tui có ngỏ kêu cô về ở với tui nhưng cô không chịu, cô nói thà tui qua ở nhà cô. Chớ nhà thầy Bảy thì cô không dám ở, qua ngủ có một đêm mà cô phải bỏ chạy trối chết về nhà mình trong đêm vì bị dọa. Sẵn đây có ông Hương Chánh ngỏ ý muốn mua, tui cũng không biết phải làm sao cho đặng. Nếu tui tự quyết rồi bán thì tui quấy quá, thầy thương thầy cho mà tui không ở tui bán. Còn ở thì không cưới được vợ, nay tui biên thơ xin tỏ rõ với thầy, mong thầy thu xếp ghé lại đặng tui nói rõ sự tình.”
Thế là thầy Tư tức tốc đánh xe về Bạc Liêu ngay khi nhận được thư, bởi kèm theo trong thư ông Hai còn gửi riêng một tờ có nói là ba tháng liền trong nhà xảy ra rất nhiều sự lạ, và còn nhấn mạnh là liên quan đến phần âm. Sau khi về lại nhà thầy Bảy, thầy Tư làm phép để xem thực hư thế nào thì phát hiện âm binh của thầy Bảy thả đi đã tự tìm về. Và những vong hồn thầy mang về nuôi vì lâu ngày không ai cúng lâu dần cũng không có yên phận nữa. Thành ra mới có chuyện xảy ra sự lạ, thế là thầy Tư lập đàn làm phép bắt hết lại đem về giao cho thầy Năm. Về phần căn nhà thì thấy ông Hai nói cũng có lý nên đồng ý bán cho hương chánh Dư. Cứ ngỡ mọi chuyện như vậy là đã xong. Nào ngờ đâu lão hương chánh vì lòng tham nên đã nghe lời một tay thầy bùa, ngay từ hôm đầu tiên dọn về ở trong nhà của thầy Bảy. Lão hương chánh đã cho người làm đập phá rồi dọn hết những cái am, và bàn thờ trong nhà. Sau đó lão rước tay thầy bùa kia về đó để mà nuôi, chẳng biết lão toan tính chuyện chi. Chỉ thấy suốt ba tháng ròng rã lão ta bung tiền ra lập đàn làm lễ gì đó, đêm nào cũng vậy. Cứ đến độ mười hai giờ là trong sân nhà lão lại sáng đèn, tiếng tay thầy bùa kia la hét niệm chú làm phép cứ vang lên đều đều trong đêm.
Sau đó thì trong căn nhà đó bắt đầu xảy ra những sự lạ, ban đầu là vợ lão đang ngủ ngon giấc thì nửa đêm bật dậy mang guốc đi vòng quanh nhà. Được đâu vài đêm thì phát hiện bà vợ lão treo cổ chết tức tưởi trong nhà, mà lạ ở chỗ là căn nhà đó thầy Bảy cho thợ làm nóc rất cao. Muốn leo lên thì phải bắt cái thang dài đến hơn năm thước mới lên được, ấy vậy bà vợ lão hương chánh lại cột được sợi dây lên nóc rồi treo cổ mà không cần đến thang. Tiếp đến là đứa con gái của lão, chẳng hiểu cớ làm sao đang yên đang lành cũng treo cổ chết tức tưởi, mà khi chết bộ dáng còn kinh khủng hơn bà vợ. Ấy là khi chết trên người không một mảnh vải che thân, khi người làm đưa cái xác xuống chưa đầy một canh giờ mà đã bốc mùi thối, da thịt trương phình lên động vào chỗ nào là thịt chỗ đó liền rơi ra, kèm theo là dòi bọ bò lúc nhúc trông cứ như là cái xác chết lâu ngày.
Đáng sợ hơn là ban đêm những nhà gần đó thường xuyên thấy trong sân xuất hiện rất nhiều những cái bóng đen trắng lờ mờ, lúc thì mới hơ tám giờ tối đã thấy trên nóc nhà có vài cái bóng trắng chạy nhảy. Khi thì nửa đêm về sáng người ta nghe thấy có tiếng cười, tiếng khóc rồi cả tiếng la hét của rất nhiều người phát ra từ trong căn nhà đó. Nhưng khi hỏi thì người trong nhà không một ai hay biết gì, mãi cho đến một ngày ban đêm đang ngủ thì nghe thấy có tiếng la thất thanh phát ra từ trong căn nhà đó.