Chương 9:
Những lời của người kia vừa dứt, thì cũng là lúc bà Nương và người đàn ông tên Tư kia bị một tiếng nổ lớn vang lên lôi kéo cả hai quay về với thực tại. Định thần lại thì cả người nhìn nhau tái mặt, không hiểu cớ ra làm sao mà cái kính bát quái đặt trên bàn lễ bỗng dưng nổ tung, những mảnh kính bị lực tác động làm cho vỡ nát hết cả ra vươn vãi đầy trên mặt bàn. Sau đó thì hai con hình nhân đất đặt ngay cửa sinh của ảo cảnh linh bỗng dưng rung lên bần bật, những đường nét phù chú trên thân chúng lúc này cũng tự dưng phát ra ánh sáng đỏ lòm lòm. Rồi từ vị trí hai con mắt trào ra hai dòng huyết lệ, những chiếc chuông nhỏ treo trên những sợi chỉ đỏ liên kết giữa hai trận pháp cũng thay phiên nhau mà rung lên liên hồi.
Nối đuôi theo sau những tiếng chuông leng keng kia là những tiếng nổ lách tách phát ra từ đám hình nhân, nhìn thấy vòng kết giới đầu tiên số hình nhân đã phát nổ và bốc cháy hết hơn phân thì nữa bà Nương tay chân run lên lẩy bẩy nhìn chồng.
” Sao…sao lại như vậy được”
” Có kẻ nhúng tay vào, mau gọi thằng Năm quay lại nhanh sắp hết thời gian rồi.”
Bấy giờ thầy Tư nhìn thấy trận pháp phát sinh dị biến thì ngầm hiểu là có chuyện chẳng lành, vốn dĩ ông chỉ nghĩ đơn thuần là trên đường đi nhóm người của thầy Năm trên đường đi đã gặp phải âm binh của ai đó, hoặc có thể là gặp phải vài ba vong quỷ. Hay nói chính xác hơn là cả hai đã gặp phải chút chuyện nhỏ ngoài ý muốn, bởi vì ông thừa biết rất rõ một khi đã dùng thuật này để xuất hồn đi đến một nơi nào đó trong quá khứ, thì chắc chắn phải mượn đường và bắt buộc phải đi ngang qua âm thành cổ trấn tức m Quan Thành. Và đặc biệt hơn hết là ở tòa thành này lại là nơi trú ngụ không chỉ của các vị chân tu, mà ngoài ra còn có cả u hồn lẫn dã quỷ.
Lại nói các vị chân tu một khi đã đến ngụ ở thành này rồi, thì chắc chắn sẽ không có chuyện cản đường hay làm phiền người sống mượn đường đi qua. Vậy thì duy nhất chỉ có u hồn và bầy ma chúng quỷ, thậm chí là âm binh của một vị nào đó gửi tại đây quấy rầy mà thôi. Ấy thế nhưng tưởng chừng như những suy đoán đó là đúng, thì sự thật nó lại trái ngược hoàn toàn. Ngay khi thầy Năm và cậu Ba Huy cùng đoàn người binh tướng kia tiến vào cổng thành thì liền được một con hắc kim thiềm đón đợi. Không biết là nó linh tính được thầy Năm sẽ mượn đường vào đêm nay, hay lá có người bảo nó đến. Thế nhưng ngay khi vừa gặp thì thầy Năm đã nhận ra nó là thú cưng của ai, và biết chắc chắn nó đợi thầy ở đây là có nguyên do. Sau một hồi đi theo chân con cóc đen kia vòng qua không biết bao nhiêu lối mòn, quanh qua không biết bao nhiêu là lầu các xa hoa có, hoang tàn đổ nát có và cả những tòa đạo quan nguy nga tráng lệ. Cuối cùng nhóm người thầy Năm cũng đã đến được điểm cuối của tòa thành, bấy giờ thầy Năm cứ ngỡ đã đến được nơi cần đến thì mọi chuyện đều như dự kiến.
Ấy thế nhưng không, trước lúc bước qua khỏi cánh cổng con kim thiềm kia có nhắc nhở thầy Năm và cậu Ba Huy rằng.
” Lão ngũ ông có chắc là muốn đi qua không, ta khuyên ông nên quay đầu thì tốt hơn.”
” Ý ta đã quyết, hơn nữa ta cũng muốn biết rõ nguyên nhân.”
” Vậy thì ông đi nhanh đi còn kịp, mà nhớ giữa đường có gặp chuyện gì bất trắc thì lập tức quay lại đây. Ta sẽ ở đây đợi hai người.”
Đợi cho con cóc ghẻ kia nói xong thì thầy Năm và cậu Ba Huy gật đầu, đoạn chắp tay xá lễ rồi nhanh chóng rời đi. Ngay khi hai người vừa bước ra khỏi cổng thành thì liền nhận ra cả hai đang đứng ở trên một con lộ, nhìn qua thì thầy Năm và cậu Ba Huy đã nhận ra ngay ấy là con lộ mà đã rất lâu rồi cả hai chưa có dịp đặt chân đến. Nói đúng hơn thì cũng đã hai mươi năm rồi cả thầy Năm và cậu Ba Huy chưa một lần quay trở lại kể từ đêm định mệnh ấy, đứng trước con lộ dẫn lối về đến ngôi làng, nơi có căn nhà khang trang bề thế của gia đình cậu Ba Huy . Một nơi chôn giấu không biết bao nhiêu là kỉ niệm đẹp thời thơ ấu, và cũng là nơi chứa đựng những nỗi đau mất mát, nơi mà cả nhà bốn người thì có đến ba người phải bỏ lại một phần hồn phách ở đó.
Rảo bước trên con đường quen thuộc ngày nào, tuy rằng đây chỉ là ảo cảnh và cảm giác bước chân cũng không chân thật. Thế nhưng mà trong lòng cả hai người lúc này thật sự mà nói thì nó giống như một mớ hỗn độn, vui có, buồn có. Vui vì niềm ao ước bấy lâu nay đã thành hiện thực, buồn vì những gì đang diễn ra trước mắt hai người. Vẫn là mảnh đất ấy với căn nhà ngói đỏ tường rêu, cả mảnh vườn cây trái xum xuê, và khoảng sân phơi thuốc ngày nào cậu Ba Huy vẫn lon ton chạy ra chạy vào nghịch phá thuốc của cha vẫn còn đó. Nhưng mà sao sau bao nhiêu năm xa vắng, nay có dịp được quay lại cứ ngỡ là sẽ vui sẽ mừng thì lại khóc than trong lòng, miệng cười mà khóe mắt lệ cay. Phải chăng là vì cảnh còn mà người chẳng còn, hay là vì quá đỗi vui mừng mà đôi dòng lệ rơi.
Chao ôi chòi lá năm nào, anh em cạn chén tiếng đàn tỉ tê. Lời ca tiếng hát còn đây, cảnh vật còn đó mà người chẳng thấy đâu.
Đứng trước ảo cảnh của căn nhà khang trang bề thế năm nào, trong lòng thầy Năm và cậu Ba Huy tuy rằng mỗi người mang một cảm xúc riêng biệt. Kẻ thương xót, người nhớ thương. Mặc dù trước khi bắt đầu cả hai đều đã nghĩ đến và cũng đoán trước được tình huống này, thế nhưng mà không thể ngờ rằng hai người lại xúc động đến nỗi lệ rơi hai hàng sớm đến như vậy. Bấy giờ cả hai chỉ mới đứng trước ảo cảnh do hai vị hộ pháp tạo ra thôi, mà cảm xúc đã không thể kiềm chế được như vậy rồi, thì thử hỏi một lát nữa thôi. Khi mà hai vị hộ pháp dẫn linh đưa cả hai bước vào khoảng thời gian của hai mươi năm trước, cho cả hai nhìn thấy những chuyện đã xảy ra ở căn nhà này trong khoảng thời gian đó, thì liệu rằng lúc ấy hai người có còn kiềm chế được cảm xúc của bản thân để tránh gây ra những chuyện ngoài ý muốn hay không.
” Pháp sư, đây chính là nơi mà hai người cần đến. Tiếp theo hai người chỉ cần bước qua khỏi kết giới này, ngay lập tức sẽ được đưa đến đúng khoảng thời không mà hai người muốn. Nhiệm vụ của chúng ta coi như đã xong, việc còn lại đều nhờ cả vào thực lực của hai người. Còn hai người này hiện tại tam hồn thất phách không đủ, nếu như hai người vẫn muốn đưa họ vào thì ta e là…”