“Này, ông không sao chứ?”
Lãm Thi Tiên cảm thấy ái ngại. Mới vừa nãy thôi, cô đang đạp xe về nhà sau buổi học trưa thì vô tình đụng phải người này. Thật sự ra thì người này đụng phải Tiên mới đúng, tuy nhiên cô gái ấy vẫn không vì vậy mà bỏ đi. Trái lại, cô cảm thấy thương cảm người đàn ông đang nằm ôm bụng dưới đất.
Khẽ đỡ người ấy dậy, cô gái vội lấy khăn lau những hạt bụi, đất cát bám trên mặt ông ta. K’Nơ đang nhìn, bỗng thoáng kinh ngạc, nhận ra đó là ông chủ mình Vương Lưu Hùng.
Ông Hùng đứng dậy, phủi bụi trên người rồi nhìn cô gái ấy. Miệng ông hé ra, lộ hàm răng xỉn màu, vươn trên kẽ là chút thịt vụn. Bất ngờ, ông ta lao vào, bịt miệng Lãm Thi Tiên bằng cái khăn nhỏ được giấu trong túi. Cô gái tội nghiệp ấy, bất giác ngất đi.
Khung cảnh xung quanh lại thay đổi. K’Nơ chợt nhận ra đó chính là căn bếp này, nơi ông Hùng cấm anh bén mảng đến.
Lãm Thi Tiên bị trói trên bàn, tứ chi dang rộng, cố nhúc nhích mà không thể. Bộ áo dài của cô đã thấm chút máu đỏ, rách nát nhàu nhĩ đến thảm thương.
Phía kia, Vương Lưu Hùng đang chặt thứ gì đó. Một mẩu gì nhơn nhớt, tanh mùi máu sượt qua má của Tiên. Cô thét lên nhưng nghẹn lại vì mảnh giẻ được nùi chặt trong khoang miệng.
Vật bay qua là con mắt to, tròn trịa với dây thịt đằng sau, trợn ngược nhìn cô ai oán!
Đằng kia, một người đàn ông đang bị cột chặt vào tấm gỗ!
Tiếng dao lại vang lên từng nhịp “cạch cạch”. K’Nơ đã không dám nhìn cảnh Vương Lưu Hùng phanh thây người đàn ông khốn khổ kia. Nhưng Lãm Thi Tiên thì không như vậy. Ánh nhìn của cô đau đáu, thương cảm mà dõi theo sự thống khổ ác nghiệt của người kia.
K’Nơ vuốt tay lên ngực. Một cô gái nhỏ nhắn, mang nét dịu dàng như vậy lại còn không ngoảnh mặt đi, hà cớ gì anh lại phải sợ? Nghĩ vậy, anh lại quay về hướng mà Lãm Thi Tiên đang nhìn. Khung cảnh trước mắt chỉ toàn màu đỏ thẫm.
Người đàn ông kia, hai mắt chỉ còn là hốc đen sâu hoắm, máu rỉ ra ướt đẫm cả cái áo sơ mi trắng. Chẳng mấy chốc, cái áo đã hóa thành màu đỏ tươi. Miệng ông ta bị căng ra bởi cọng dây da to chắc, chỉ còn ú ớ trong tuyệt vọng.
Vương Lưu Hùng vừa huýt sáo, vừa lẩm bẩm trong miệng.
“Cứ giãy tiếp đi! Tốt lắm! Lị có biết, thịt ngon nhất là khi còn chút tiết và đã ra hết mồ hôi không?”
Nói đoạn, hắn vung con dao lên rồi hạ xuống. Lưỡi dao cắm ngập vào bắp tay người đàn ông khốn khổ kia. Đến đoạn có lẽ vướn phải xương, Hùng lại lách lưỡi dao sang một bên mà kéo. Lưỡi dao gọn ghẽ, dứt khoát, chẳng mấy mốc mà đã lạng ra một miếng thịt tươi vẫn còn rỏ máu, để lại là một đoạn xương còn lay lắt chút vụn thịt, cố bám vào cái thân khốn nạn ấy, lộ rõ từng vết gân vẫn hơi phập phồng. Hắn lại lấy một nắm to thuốc lá trét đầy lên đoạn xương đó rồi dùng dây buộc chặt để cầm máu, máu tươi lẫn chút mỡ người trắng đục quện vào nhau, chảy xuống dưới sàn bếp, tanh tưởi nồng gắt làm K’Nơ lợm giọng. Anh cố nôn ra nhưng chẳng được. Vì anh cũng phải ở đấy đâu?
Đặt miếng thịt lên thớt, Hùng đưa chút nước rửa sạch vết máu còn đọng lại, rồi lại dùng than đỏ phủ lên. Tiếng thịt hơi sém “xèo xèo” vài tiếng, bốc mùi thơm lựng. Có vẻ đã vừa lòng, Hùng lại phủi lớp tro phía trên đi, rồi cắt thành từng miếng nhỏ. Đoạn, hắn lấy mộc nhĩ, chút nấm hương, vài củ hành băm nhuyễn, vài tép tỏi tươi, vài cọng rau răm lên chỗ thịt ấy rồi băm liên hồi. Tiếng dao chạm vào thớt nghe “cạch cạch”, thì ra là tiếng “cạch cạch” đó là tiếng đánh thức K’Nơ mỗi sớm, quen thuộc mà thê lương đến không tưởng.
Băm vừa xong, hắn lại cho vào vài hạt tiêu trắng, rồi lại băm. Mùi thơm của tiêu quện vào, át hẳn mùi máu tanh lúc trước. Xong việc, hắn lại đem mớ thịt băm ấy sang bên rồi nhào bột, chia thành từng miếng bột nhỏ rồi cán mỏng. Trên bàn, mọi thứ đã sẵn sàng.
Hắn cho thịt vào chỗ bột ấy, lại thêm một quả trứng cút nhỏ rồi gói lại. Một lúc sau, từ chỗ bột và mớ thịt lổn nhổn ấy đã trở thành những cái bánh bao ngon lành, chỉ chờ việc hấp. Nhìn lại, vẫn còn dư cơ số bột chưa làm, hắn quay lại chỗ người đàn ông kia, cười thân thiện quái dị mà nói:
“Chà chà, vẫn còn thiếu chút đỉnh! Lại phiền lị rồi!”
Người kia ú ớ trong miệng, đôi mắt trào nước mắt không ngừng, lộ rõ vẻ sợ hãi. Đôi dao của Vương Lưu Hùng nâng lên, rồi lại hạ mạnh xuống.
“Cạch cạch!!!”
Từ trong bếp, khói lò hấp đã tỏa ra.
***
Khung cảnh lại chuyển đến buổi đêm. Lần này không có Vương Lưu Hùng, trong căn bếp chỉ còn Lãm Thi Tiên đang bị trói chặt và người đàn ông đang chết dần chết mòn kia.
K’Nơ tiến gần lại xem, khung cảnh thê lương đến kinh dị. Hai cánh tay người kia giờ chỉ còn xương lủng lẳng, hai con mắt đã bị móc ra, máu đọng lại trong hốc thâm xì. Chỉ còn tiếng ú ớ như khóc đau khổ.
Bỗng nghe thấy vài tiếng động lạ, sau lại to dần, dồn dập hơn. Từ trong góc tối, hàng chục đốm sáng xanh nhờ nhỏ xíu hiện ra, từ từ lại gần.
Một bầy chuột đói!
Chúng leo lên bếp, uống chỗ máu còn đọng lại. Mỗi con to bằng bắp chân người, đen trùi trũi. Uống cạn chỗ máu ấy, dường như thấy chưa đủ, chúng leo hẳn lên bàn mà tiến lại người đàn ông kia. Ban đầu chỉ vài con, sau dần tụ tập lại đen nghịt, phủ kín ngực người kia. Chúng bắt đầu cấu xé, lôi ra từng miếng thịt nhỏ mà ngấu nghiến. Ngực người kia, giờ chi chít lỗ nhỏ.
Lũ chuột sau khi no nê, lại bỏ về hang ổ, để lại người kia chỉ còn thoi thóp, dãi chảy quanh miệng, máu tứa ra. Lại có tiếng “vò vò”, nhìn lại thì một đàn ruồi, con nào con nấy to bằng con ong mật, ngửi thấy mùi máu mà kéo đến, phủ kín người kia, đen nhẻm. Bây giờ, chỉ thấy ruồi xếp thành hình người chứ chẳng thấy người đâu nữa. Lũ ruồi ban đầu bụng còn nhỏ, sau dần lại to đùng, bay không nổi mà rớt xuống sàn như rạ, bò lổm ngổm xung quanh.
Lại một tiếng động mạnh. Lần này rõ mặt của Vương Lưu Hùng, trên vai còn xách thêm bao tải to mà vào. Nhìn thấy cảnh vậy, hắn dậm chân mà thét.
“Lũ súc sinh khốn nạn, lại mất mớ thịt ngon lành của ông!”
Nhưng hắn lại bình tĩnh lại nhanh đến lạ. Thọc tay vào bao tải, hắn lôi ra một người phụ nữ tóc dài chấm lưng, ném xuống sàn. Người này vẫn còn mê man chưa biết gì, hắn lại mở trói cho người đàn ông kia mà thảy vào bao tải, buộc chặt rồi lẳng lên vai, tiến thẳng ra phía vườn. Miệng vẫn còn lẩm bẩm.
“May mà ngộ vừa kiếm được thêm thịt tươi, không lại phải nghỉ một buổi!”
Cái bao tải ấy, buộc vẫn còn lòi ra một đoạn xương tay.
Không biết có nhìn nhầm không, nhưng K’Nơ lại thấy rõ khúc xương ấy giơ yếu ớt về phía anh như cầu cứu!
Ngoài vườn, tiếng “bõm” khô khốc vang lên.
***
“Không! Xin tha cho tôi! Không! Không!”
Vương Lưu Hùng mặt đỏ như gấc, tai hắn như phì ra cả khói, lăm lăm con dao mà tiến lại gần người phụ nữ kia.
Chẳng là trong lúc hắn đi vứt xác người kia, người này đột nhiên tỉnh dậy, thấy khung cảnh kinh dị mà la hét làm hắn chột dạ mà lao vào, chỉ thấy người này bò lăn trên sàn kêu cứu.
Hắn chộp lấy con dao để phía trước, lăm lăm tiến lại. Người phụ nữ cầu xin trong vô vọng, giơ tay mà đỡ lấy đường dao lạnh lùng hạ xuống. Cánh tay bay lìa khỏi thân, còn chút sức mà cố lết đi được một đoạn thì một con chuột to chạy ra, gặm lấy mà lôi hẳn về hang. Vương Lưu Hùng lại chém thêm một nhát, lần này thì đầu người phụ nữ bay ra khỏi cổ, máu phọt ra từ cái cổ không đầu, bắn thẳng trên trần nhà làm máu nhiễu xuống từng giọt.
Nhặt lấy cái đầu còn nóng hổi, cảm giác đói bụng, hắn cầm cái đầu ngang mặt mà nham nhở.
“Tối nay, để bổn gia ta thưởng thức món não hầu nhà ngươi!”
Hắn đặt cái đầu lên bàn, lại lấy con dao dùng cạo lông heo mà cạo sạch tóc. Cái đầu giờ tròn lẳng, như quả dưa còn xanh vươn chút đỏ. Hắn dùng con dao to bản mà phay mạnh, một mảng sọ đầu bay ra, lộ ra bộ óc vẫn còn chút phập phồng.
Hắn lấy ấm trà trộn nhân sâm vẫn còn nóng trên bếp mà đổ vào cho các dây máu não chuyển dần thành tím, bộ óc đã hơi tái đi. Cho thêm chút rau răm xắt nhuyễn, rải lên ít tiêu băm, ít gừng thái sợi được nướng sơ qua lửa, hắn lấy cái muỗng gỗ mà xúc lấy mớ óc vị mặn, bùi, hơi tanh mùi máu mà ăn lấy ăn để.
Ăn xong, chỉ còn cái đầu chỏng chơ không óc, lưỡi thè ra một bên, hắn lẳng vào thùng đựng thải như ném đi túi rác rồi chép miệng, liếm lấy chút óc còn dính nơi mép.
Những việc ấy, Lãm Thi Tiên lúc này còn bị trói trên bàn thấy cả!
Rồi hắn tiến đến Tiên, đôi mắt ngầu đục…
***
Óc người, cơ bản là chất cường dương, lại có chút tiêu hỗ trợ làm người ăn phát dục mà sinh hoang dâm. Một ít lá rau răm ấy, không đủ để hãm lại. Chưa kể lúc đầu, vì cảm phục nhan sắc của Lãm Thi Tiên mà hắn cố ý để lại vài ngày, cho uống nước sâm mà cầm cự. Nay tiểu tiên nữ vẫn còn bị trói ở kia mà không ám mùi bụi trần, nhan sắc lúc tuyệt vọng lại còn hơn muôn phần, làm hắn động lòng mà muốn giao hoan.
Hắn đè cái thân nhớp nháp lên người Lãm Thi Tiên, kê cái môi đỏ còn vươn máu áp sát mặt cô hít lấy hít để rồi dùng tay mà xé rách cái áo dài, tay còn lại nắm chặt vào lưng quần mà kéo xuống. Nàng ấy cố vùng vẫy mà chẳng được, nước mắt tuôn trào. Một chốc sau, toàn thân lõa lồ, lộ ra cả tòa thiên nhiên đẹp lạ lẫm.
K’Nơ hổ thẹn chẳng dám nhìn, chỉ nghe tiếng thở hồng hộc của Vương Lưu Hùng, tiếng bàn va vào cạnh tường đánh cành cạch. Lại nghe tiếng khoan khoái, hắn bỏ ra phía ngoài mà châm một điếu thuốc. Trên bàn, chỉ còn Lãm Thi Tiên nước mắt không ngừng rơi, phía hạ thân, máu thiếu nữ trào ra không ngớt. Một cô gái thánh thiện có vẻ đẹp tiên nữ ấy, nay bị thất thân vì con quái vật đội lốt người.
Nhưng hắn nào tha cho cô. Được một lúc, hắn lại vào giao hoan, thỏa mãn cái thú tính ấy. Tiếng thở của con dã thú càng lúc càng to, thân của Lãm Thi Tiên rung lên từng nhịp, nhơ bẩn.
Hoan lạc xong, hắn thấy tiên nữ đã bị hạ nhục, vẻ đẹp thánh thiện nay chẳng còn, vì vậy mà lạnh lùng mà cắt lấy một bên ngực của cô. Chỗ ngực ấy, nhanh chóng bị ướp gia vị rồi băm ra thành nhân bánh, được hẳn bốn cái to đùng. Chứng kiến cảnh bất nhân, K’Nơ khẽ kéo áo Lãm Thi Tiên, chừng không muốn xem nữa. Cô ứa nước mắt, gật đầu.
Cảnh lại chuyển về khung trời sáng.
K’Nơ nhận ra, đó là sáng hôm ấy, ngày mà anh gặp Vương Lưu Hùng. Anh thấy hắn lấy ra vài cái bánh to cho anh. Anh ngấu nghiến hết sạch. Lại làm việc cho hắn, hắn lại cho thêm hai cái bánh nữa. Những cái bánh ấy, K’Nơ đau lòng nhận ra là từ chỗ thịt của Lãm Thi Tiên.
Anh quay sang cô ấy, đôi mắt anh chẳng biết khi nào mà đã ứa lệ. Anh cố xin lỗi, nhưng chẳng thốt thành lời. Lãm Thi Tiên hiểu ý anh, lắc đầu quầy quậy mà nhẹ nói.
“Đừng cảm thấy tội lỗi, tôi không hận anh, kể cả ông ta cũng vậy! Số tôi đoản mệnh, âu là ý trời…”
K’Nơ nghẹn ngào, chưa kịp nói gì thì Tiên đã tiếp lời.
“Vì nhờ anh đã ăn mấy cái bánh ấy, mà tôi mới có thể hiện ra với anh…”
Rồi Lãm Thi Tiên chỉ tay về cái giếng ngoài vườn.
“Chắc xem qua thì anh cũng hiểu bên dưới cái giếng có gì rồi chứ? Là phần thừa của thi thể tôi sau khi bị lão lốc thịt, không phải chỉ mỗi tôi mà các người bị lão ấy phanh thây cũng đều bị ném xuống cái giếng đó! “Hai cây cột” khi nãy định làm hại anh là một trong số những người bị giết, lão cũng làm như làm thịt người đàn ông kia”
Khung cảnh lại hiện ra với K’Nơ.
Trước tiên là móc mắt ăn sống, sau thì xẻ một chút thịt ở vai ăn thử nhưng lão lại chê thịt người ấy hơi hôi nên để mặc như vậy mà ném xuống giếng. Nhưng người đàn ông đấy vẫn chưa chết, thân tàn ma dại, mù cả hai mắt mà thoi thóp sống dở chết dở nơi đáy giếng, phải ăn thịt xác thừa của người khác dưới giếng mà lấy sức cố leo lên nhưng lên gần đến miệng giếng thì lại vướn cái xác khác mà rơi ngược lại.
Cứ như thế được hơn mười hai ngày thì anh ta chết cóng vì ngâm nước. Da bong ra khỏi thịt, lộ rõ các bó cơ teo tóp, dây gân và mỡ người vàng sậm, da thì nhờn nhợt trắng tái, nhăn nheo như cái khăn mặt, thịt vì bị rữa nên trôi xuống, tạo cảm giác dài ra. Mỗi đêm, anh ta đều hiện về để tìm lại đôi mắt nhưng đâu biết rằng đôi mắt của anh đã vĩnh viễn thành đống phân trong hầm cầu rồi. Con mắt tròn, mọng nước, khi cắn vào dịch mắt chảy ra, có mùi hơi ngai ngái, béo, bùi, khi nhai không có cảm giác cứng mà hơi dai, vành mắt giống như đang ăn da heo được luộc kỹ. Phần lòng đen, ăn có cảm giác hơi gây sạn trong miệng, tuy nhiên khi tan ra thì có mùi thơm như lòng trắng trứng gà vì béo quá nên ăn sẽ có cảm giác hơi ớn nên lão chỉ ăn một con, còn một con thì lão bỏ, chắc bị lũ chuột tha đi mà gặm rồi”
K’Nơ vừa nghe vừa trào nước dãi trong miệng, không phải vì thèm mà vì buồn nôn. Cậu nhăn mặt nuốt nước bọt vào họng, không ngờ hai cái bánh lúc vừa đến xứ này ăn xin lại làm từ “thịt kia”, thảo nào lại có mùi vị đậm đà tuyệt vời mà lạ lạ, đáng thương hơn là mẻ bánh trung thu hôm qua có cả thịt của Lãm Thi Tiên trong đó.
***
Tiệm bánh Cát Tường này, chỉ là một tiệm nhỏ nhưng rất đắt hàng, vì người ta khen bánh của lão già kia ngon lạ khó cưỡng, ăn một lần là nhớ mãi. Đâu phải chỉ bánh bao, mà thường ngày lúc tầm chiều, hắn còn bán cả bánh mì paté, bánh mì phá lấu,.. thứ paté béo ngậy đó làm từ gan và mỡ người băm ra rồi trộn vào đem hấp lên. Phá lấu, lạp xưởng thì lão moi ruột nạn nhân, đem rửa sạch rồi ướp gia vị, khìa với nước dừa tươi theo công thức của người Hương Cảng*. Da người và lỗ tai thì lão lốc ra, tỉ mỉ xẻ từng sợi mỏng, nhỏ như que tăm rồi trộn với thính gạo để làm bì trộn, mỗi buỗi chiều thu hút biết bao cô cậu học sinh tan trường với cái bụng đói mà kéo đến tiệm chờ mua bánh mì.
Người phương xa thì mong mỏi tới Tết Đoàn Viên để mà về đây đặt mua bánh trung thu.
Bánh thập cẩm thì lão dùng thịt người phơi một nắng rồi xẻ ra thành xớ, nấu xốt với lá chanh cho kẹo lại, còn bánh nhân ngọt thì dùng mỡ người đun nóng cho chảy ra rồi trộn với đậu xanh tán nhuyễn, dừa nạo, khoai môn mà làm nhân. Bánh pía thì còn có cả mỡ người và gân người xắt hạt lựu, ăn vào thì hơi dai, dẻo, sựt sựt như thạch rau cau rong biển trong trà sữa vậy, chính vì công thức chế biến độc đáo đó mà bánh trung thu và bánh pía của lão có mùi vị lạ miệng, đậm đà khiến ai ăn rồi thì không thể nào quên, nhưng họ đâu biết rằng để có được thứ “nguyên liệu” vạn người mê đó thì bao nhiêu người đã phải bị phanh thây xẻ thịt, mọi ruột lốc xương dưới lưỡi dao lạnh lùng.
Nhưng vẫn đau lòng nhất là Lãm Thi Tiên, cô gái tuổi vừa đẹp nhất, trong trắng hồn nhiên tinh khiết như hạt nắng lại bị tên già này cướp mất cái ngàn vàng lại còn chết không toàn thây, thi thể bị phân chia làm nhân bánh, oan hồn không thể siêu thoát.
Lại nói về Vương Lưu Hùng, lão là người người gốc Hoa nơi đất Đề Ngạn – Tây Cống**.
Thuở thiếu niên làm kéo xe cho nhà một đại gia, vì cuộc sống làm không đủ ăn và chiến tranh ác liệt, lão dẫn vợ chạy đến vùng này, dựng một lò bánh nhỏ sinh sống qua ngày.
“Một túp lều tranh, hai quả tim vàng” ngày qua ngày cho đến khi bà vợ không chịu được nữa.
Bao nhiêu vốn liếng đều đổ vào lò bánh nhưng buôn bán ế ẩm, vợ lão vì không chịu được cảnh cơ hàn mà bỏ theo một người cán bộ của thôn.
Căm hận vì phụ bạc, phu thê nghĩa trọng thiêng liêng mà thua bạc trắng lửa hồng cộng với ghen tuông mù quáng, lão lạnh lùng ra tay sát hại người vợ từng đầu ấp tay gối với cả tình địch.
Tình hình kinh tế còn khó khăn, thịt, cá là những thực phẩm xa xỉ đối với nhiều người, có tiền mà mua thịt lão cũng chỉ để làm bánh bán kiếm chút đỉnh chứ cũng không dám ăn, thế là lão nảy ra ý định làm thịt cả hai để làm nhân bánh, lão hận cả hai đến tận xương tủy, lốc thịt làm bánh để cho cả thiên hạ này ăn thịt hai người, phần xương thịt đó sẽ hóa thành phân cho chó ăn vừa trả được thù tình vừa có nguyên liệu để kinh doanh mà không tốn một xu, lão hí hửng phân chia thi thể, băm nát ra rồi làm nhân bánh, khoảng thời gian đó là đầu tháng Tám âm lịch, thế là bánh trung thu nhân thịt người trứ danh ra mắt từ dạo đó.
Bà con hàng xóm láng giềng ai cũng vì cuộc sống mưu sinh mà không để ý đến sự mất tích của người vợ lão, ai hỏi thăm thì lão kể rằng vợ mình vì chê nghèo mà đã bỏ theo người đàn ông khác nên lão ở vậy và không muốn lấy vợ nữa. Tất cả bà con lối xóm đều nghĩ ông Hùng là người hiền hòa, trung thực và chăm chỉ nên rất quý mến.
Mùa trung thu năm đó, bánh trung thu và bánh pía của lão bán rất cháy hàng, mẻ nào hết mẻ đó. Những người ăn bánh đều nói rằng hương vị của bánh trung thu đặc biệt thơm ngon, cũng không ai vì bánh của lão mà bị bệnh cả, nên mọi người rất tin tưởng vào tiệm bánh của ông Hùng. Đương nhiên, lúc đó ở một vùng ngoại ô nhỏ bé chẳng có ai rỗi hơi mà mang bánh để đi phân tích hương vị cả.
Cảm thấy thịt người có hương vị đặc biệt khiến thực khách mê mẫn, lão nảy ra ý định dùng luôn thịt người mà làm bánh. Cứ mỗi buổi sập tối, lão đạp xe lân la đến những chỗ vắng người, giả vờ tông xe vào người ta rồi nhân lúc họ không để ý mà chụp thuốc mê, bỏ vào bao tải mà mang về lốc thịt. Vừa chẳng tốn tiền mua thịt, lại được hương vị bánh thơm ngon, chẳng mấy chốc mà tiệm bánh của lão trở nên nổi tiếng vì thế lão không chỉ bán bánh trung thu không mà hằng ngày còn dùng thịt người để làm lạp xưởng, patê, phá lấu mà bán bánh mì, bánh bao… Có cả đầu bếp từ Tân Gia Ba*** đến Việt Nam tìm lão trả số tiền lớn để học bí quyết làm bánh trung thu của lão nhưng lão từ chối và nói rằng đó là công thức gia truyền, chỉ truyền lại cho đích tử**** nên không thể phổ biến cho người ngoài.
Giàu có nhanh chóng đến với lão nhưng cửa tiệm và lò bánh thì vẫn cũ kĩ, ọp ẹp như ngày đầu lão đến đây. Phần vì nhà là nơi bắt đầu và cũng không nên thay đổi, người Hoa rất coi trọng việc phong thủy chọn đất làm nhà, cất mộ, họ cho rằng gia chủ có ăn nên làm ra hay không, phần lớn đều liên quan đến việc chọn đất. Họ nghĩ rằng chính nơi họ bắt đầu ấy phong thủy tốt, giúp họ làm ăn khấm khá cho nên họ sẽ tiếp tục duy trì như trước. Họ sợ “sai một li sẽ đi một mớ”, sợ “mất tất cả những gì đang có” nên thà họ sống ở chỗ cũ mà vẫn duy trì được suộc sống như trước thì vẫn hay hơn, phần vì sau khi vợ chết, lão đau lòng chán nản mà sinh ra thậm tệ, lão bắt đầu đắm mình vào “kiếp đỏ đen” thâu đêm suốt sáng mỗi khi mưa gió không có khách tới mua bánh, và lần đi vắng này cũng là đi “múa quạt” như bao lần khác thôi, tuy là giàu có nhưng tài sản tích trữ khi đau ốm cũng chẳng được bao nhiêu.
Về phần người đàn bà mất con chết thảm kia, vì ham mê phú quý mà sa vào lòng Vương Lưu Hùng. Ngày ấy, mụ dắt hai con đến nhà Hùng, để chúng chơi ngoài sân mà vào hoan lạc với gã. Lúc về chẳng thấy con đâu, cứ tưởng chúng về nhà. Nào biết là chúng thấy lâu, lén nhìn vào trong, thấy mẹ đang gầm rú bên lão ấy mà sinh oán hận. Lại chẳng ngờ, Vương Lưu Hùng đã thấy chúng, bèn nhân lúc người mẹ ra ngoài mà bắt cả hai làm nhân bánh cả. Cái chết của bà ta, âu cũng là nghiệp báo, như thể chúng muốn trở lại, chẳng muốn sinh ra đời nữa!
***
Lãm Thi Tiên gạt nước mắt mà nói tiếp với K’Nơ:
“Anh có lòng lập bài vị cho tôi, tôi sẽ không chối từ, vì số chết oan không biết đến bao giờ mới siêu thoát, cả những người dưới giếng nữa, anh hãy giúp cả họ, chỉ cần ghi “Những vong hồn chết dưới lưỡi dao của Vương Lưu Hùng” rồi gởi họ lên chùa, nhờ các sư thầy trì tụng Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện Kinh cho họ sớm siêu thoát để họ không còn lưu luyến mà tìm lão trả thù, chi bằng siêu sanh mà về thụ hưởng thờ cúng của gia đình thì hơn . Trời cũng gần canh hai rồi(*), lão già đó sẽ trở về mà làm bánh thôi, tôi không thể ở đây lâu được”.
K’Nơ khẽ gật đầu. Lãm Thi Tiên mỉm cười, rồi nhẹ ôm anh.
Chỉ một thoáng, K’Nơ và Lãm Thi Tiên đã trở về lại gian bếp. Anh nhận ra đây là lúc mà mình gặp Tiên lần đầu. Chợt nhận ra, cô đã cất được tiếng nói. Hay là qua báo điều oan trái, nay cô đã được đủ hồn?
“Đã gần đủ bốn mươi chín ngày, từ ngày tôi chết…”
Giọng của Tiên cất lên, ngay tại đây chứ không phải trong mộng.
“Đáng lẽ, tôi sẽ không nói được, nhưng…”
Lãm Thi Tiên nhìn về phía chỗ bánh trên bàn. K’Nơ bỗng thấy lợm giọng. Anh nhận ra chính mình đã ăn phần lưỡi của cô gái ấy. Nay anh ở đây, xem như xác đã toàn hình nên cô ấy mới nói được.
Tiếng gà gáy, đã gần lục canh.
***
“Ông thầy ăn một,
Bà cốt ăn hai,
Cái thủ, cái tai;
Mang đi biếu chú”*
Ngoài kia, giọng ai đó ai oán cất lên, nghe ghê rợn mà lại xót xa cõi lòng. K’Nơ biết đó không phải của người nên nín thinh, không dám cất tiếng hỏi. Lại nghe:
“Chợ Chì là chợ Chì xa,
Thương con, nhớ cháu, chém cha chợ Chì”**
Lần này thì tiếng phụ nữ nghe rõ mồn một. Câu trên vừa dứt, tiếng cào cửa lại vang lên liên hồi, tưởng chừng từng thớ gỗ đang bật ra, thứ ngoài kia xé toạc mà vào.
Tiên khẽ chạm vào K’Nơ, bàn tay cô lạnh ngắt nhưng chẳng hiểu sao, K’Nơ lại thấy ấm áp lạ kỳ. Anh đưa tay chạm vào tay cô, đôi tay anh khẽ run từng nhịp. Biết anh đang sợ, Tiên chỉ nói bằng giọng nhỏ mà cao vút ấy.
“Anh đừng sợ, họ chẳng vào đây được. Nơi này tử khí nặng nề, lại là nơi họ bị sát hại. Cho dù muốn thì muôn phần là không thể…”
Cô dẫn anh đi gần về phía cửa. Nhẹ đẩy tay, cánh cửa mở toang. Ngoài đó là ba cái vong mà anh đã nhìn thấy lúc trước. Chúng túm tụm vào nhau, đưa tay che mặt như than khóc. Ngoài kia, trời đã tối tự khi nào.
“Anh đừng dùng tên mà lão Hùng đặt cho anh, hãy dùng tên thật của mình, chúng sẽ còn nhưng chẳng hại đến anh…”
K Nơ trố mắt ngạc nhiên, tỏ ý không hiểu. Tiên lại trả lời.
“Tên anh vốn mang nghĩa Dật, tức ẩn. Ma quỷ chẳng hiểu sâu xa, chúng chỉ nghĩ cái tên ấy là anh muốn lẩn trốn, nên chúng muốn hại anh…”
“Nhưng tại sao chúng lại muốn hại tôi? Chẳng phải oán là do lão Hùng gây ra sao?”
“Vì hắn vốn chẳng tin thần, tin quỷ, lại sát khí đầy mình,ma quỷ chẳng thể báo oán được. Thôi, anh mau mà đi! Sáng, hắn về, anh lại không thoát!”
K’Nơ nghe, cho là phải, vội đi ra phía ngoài, miệng nói lớn:
“Tôi tên là K’Nơ!”
Tức thì lũ vong ấy tránh ra, chẳng đụng chạm vào anh. Anh lại vội chạy về phòng mình, lấy tay nải mà cho vật dụng cá nhân vào. Chẳng có gì nhiều, chỉ là vài ba bộ quần áo và lá thư của ông Tuấn để lại cho anh, dặn dò khi gặp được người hiểu chuyện thì hẵng xem. Gói ghém xong, anh lại treo bài vị của Tiên vào trước ngực, tức tốc đi ra khỏi cái lò bánh quỷ quái ấy.
Đoạn, anh đứng trước lũ vong kia mà tạ biệt. Lúc sống, họ đã làm người, nhưng đến khi chết lại chẳng ai hay, thực là bất công. Anh tạ biệt, như chút tình thương xót đồng loại với nhau trong anh. Nhưng lũ vong ấy, chợt nhốn nháo cả lên. Chúng vồ lấy anh, rõ trên mặt là thứ gì nhờn nhợt chảy ra như nước mắt. Chỉ nghe loáng thoáng trong cái đêm tố tăm ấy vài từ.
“Mộ… Bài vị… Kiếp…”
Chỉ vậy, nhưng lũ vong lại ôm chặt bài vị của Tiên mà anh treo trước ngực. Anh hiểu ý, lũ vong ấy muốn ai đó lập cho mình bài vị, cốt để có nén hương mà qua bốn mươi chín ngày thoát thai, đặng đường siêu thoát. Quay lại nhìn Tiên, lúc này đã nép sau cột cửa, cô khẽ gật đầu nhưng vẫn có chút ái ngại.
Anh khẽ gật đầu, ra vẻ đồng ý. Lũ vong liền hồ hởi thấy rõ. Thoáng chốc, anh thấy người mình như nhẹ bẫng đi, chớp mắt đã đứng trước miệng giếng. Cái vong có chân dài đẩy mạnh ổ khóa, nó rời ra tức thì. Lại nhấc lên, miệng giếng mở toang, mùi tử khí xộc lên nồng nặc.
Dưới ấy, qua ánh trăng mờ, lồ lộ chục bộ hài cốt trắng hếu đầy dòi bọ. Ở một góc, lại thấy có cái xác chưa rữa cứng đờ, miệng há hốc, tay nghều ngào như muốn bò lên trên, lũ bọ lại cắn xé hạ thân, vô tình trông như cái chân đã dài thêm vài thước.
Anh chẳng buồn nôn, vì bỗng dưng anh thấy thương cảm những số phận kia. Chẳng biết tên họ, anh đành lấy một tấm gỗ, đề lên mấy chữ: “Vô danh đại mộ”. Lại lấy vài nén hương thắp lên, tức thì cái xác rữa kia thịt tụt xuống hẳn, chỉ còn bộ xương trắng hếu. Quanh đó, nghe rõ âm thanh của vài câu như từ cõi khác vọng về.
“Cám ơn!”
***
K’Nơ bỏ đi, để lại phía sau cái lò bánh xác người ấy. Đáng lẽ phải mừng, nhưng sao anh trống rỗng đến lạ. Được một đoạn, ánh nhìn của Tiên đau đáu trong lòng anh. Cô gái ấy đã nói với anh, cô đã sắp được bốn mươi chín ngày. Vì lòng không oán, lại chỉ muốn giúp anh. Nay việc đã thành, cô sắp được siêu thoát.
Nhưng ánh mắt của cô, như có gì còn luyến tiếc, xa xăm. K’Nơ đi thêm vài bước, lại hấp tấp vội quay lại. Anh muốn cô ấy không còn chút luyến tiếc gì nữa!
Vội vào lò bánh, Tiên đang ngồi trên bậu cửa sổ mà ngắm trăng. Thấy anh vào, cô thoáng cười nhưng lại tắt ngay, nét mặt nghiêm nghị.
“Sao anh chưa đi?”
“Tôi muốn…”
“Muốn gì kia chứ? Anh không đi, tôi chẳng thể siêu thoát được! Anh lại muốn hại tôi sao?”
K Nơ không trả lời, anh lấy từ trong tay nải ra một mảnh vải. Đoạn, anh cắn một ngón tay làm máu rỉ ra. Dùng chút máu ấy, anh ghi trên mảnh vải ba từ “Lê Ngọc Hân”.
Lãm Thi Tiên biết anh hiểu nỗi lòng của mình. Cô gái tuổi trăng tròn ấy mất khi còn quá trẻ, còn quá nhiều hoài bão phía trước. Cho dù siêu thoát kiếp này, cô vẫn muốn đi trọn kiếp người ở nạn này.
Hai hàng nước mắt lăn dài, cô lắc đầu quầy quậy, khóc mà nói trong dòng lệ.
“Tôi… tôi chẳng thể đi được… Kiếp này tôi đã được định đi đầu thai, chẳng thể quay đầu lại…”
“Nhưng cô có muốn đi cùng tôi không?”
K’Nơ hỏi, giọng anh trầm ấm.
Lãm Thi Tiên gật đầu. Cô muốn được ở lại dương gian này, cho dù có là trong đau khổ.
“Vậy xác… của cô, nó ở đâu?”
Có ai đó đã nói rằng, người chết khi đặt xác ở đâu, nơi đó sẽ là mộ. Cho dù khi sống người đó có là Phật, nếu ai phạm mộ thì đều bị ám.
K’Nơ đã làm như vậy. Anh đi đến nơi Tiên chỉ, tại đó, một mô đất cao hơn so với xung quanh, chỉ có vài nén hương đã tàn. Anh đào lên, thấy rõ xác Tiên nay đã hư hại nhiều phần, chỉ còn bộ áo dài thấm máu loang là vẫn còn đó. Lại lấy xẻng, anh lấy một đoạn xương tay của Tiên mà cho vào nải, lại dùng chân mà phá nát thi hài của cô.
Lãm Thi Tiên bỗng thấy người nặng trĩu, rồi như có nguồn lực nào đó đẩy cô đến gần K Nơ. Biết mình đã không được siêu thoát, cô khẽ cười mà nói.
“Vậy thì tôi phải ám anh cả đời!”
“Cứ việc, tôi khó chết lắm!”
K’Nơ cười lớn. Xong việc, anh lại ra đi. Giờ đây anh không chỉ có một mình mà còn có Lãm Thi Tiên bên cạnh.
Một người, một ma ấy nhằm thẳng hướng Tây Nam mà đi, chẳng biết đích đến. Phía trước mặt họ, nắng đã bắt đầu rọi lên…
“Kê thử thất canh, họa lai phúc,
Điền nội hàn thu, nạn mộ phần”
Vương Lưu Hùng trở về khi gà đã gáy qua một canh. Hắn thấy lạ vì cái lò bánh đã mở cửa toang hoang tự bao giờ. Cất tiếng gọi K’Nơ lại chẳng thấy anh đâu, hắn bực bội mà đi vào trong. Thấy phòng anh trống hoắc, lại nhìn ra vườn, thấy miệng giếng mở toang. Biết anh đã rõ sự tình mà tháo chạy, hắn dậm chân gào thét, lại chạy vào bếp mang theo con dao hay dùng xẻ thịt người, quyết tìm anh hạ sát.
Bỗng dưng lại nghe mùi hương đèn, chẳng hiểu vì sao hắn lại bước ra vườn, thắp vài nén nhang mà lạy.
Kẻ chẳng sợ quỷ tin thần, chỉ cần tâm bất tịnh, ngay tức khắc sẽ bị báo oán. Hắn vốn đã tin, nhưng chưa có bài vị. Vì K’Nơ đã lập vị mà vong có quỷ nhãn mà thấu, nay lại thấy kẻ thủ ác, tức thì muốn trả hận.
Nhang vừa cháy chưa được một khấc, phía sau hắn hàng chục cái vong chẳng đủ hình người tiến lại gần, nắm cổ hắn mà lôi vào trong bếp, chỉ còn tiếng thét thất thanh vang lên. Thoáng chốc, cái vườn lại yên ắng như lúc trước.
***
Cái xứ người Hoa ấy, nhốn nháo lên vì cái vụ lò bánh Cát Tường. Cảnh sát chỉ thông tin có hơn ba mươi tám cái xác người, tập trung tại cái giếng. Riêng có một cái xác bị kẻ ác giày xéo phía sau tiệm, muôn phần ghê rợn. Lại nghe kiểm tra mấy cái bánh Trung Thu có đến chín phần nhân là thịt người, mọi người càng thấy kinh khiếp.
Nhưng cái chính là có một người Hoa, vốn là chủ lò bánh bị cảnh sát bắn chết. Vì nghĩ công dân người Việt giết người Hoa báo thù nên họ bất bình, các Hội quán tương tế người Hoa còn định tổ chức biểu tình. Sau khi thuyết phục không được, chính quyền liền cho đăng một bài báo ngắn, nói rõ sự tình. Chi tiết có thể nói gọn như vầy.
“Qua tin báo của người dân về việc lò bánh Cát Tường có mùi hôi thối, đồng thời chủ tiệm bánh là Vương Lưu Hùng đã mất tích, Công an tỉnh… đã đến hiện trường xem xét. Qua kiểm tra, phát hiện có ba mươi tám thi thể bên trong giếng tại vườn đang trong giai đoạn phân hủy, vài thi thể có lẽ đã bị sát hại từ lâu. Phía sau tiệm bánh, phát hiện xác của nữ giới khoảng mười tám, mười chín tuổi đã bị ai đó đào lên và phá nát.
Tiếp tục kiểm tra, cảnh sát nghe có tiếng động lạ, nghi hung thủ còn ở trong nhà nên đã cảnh báo. Sau khi phát hiện tiếng ồn tại cái lu đặt tại phòng bếp, cảnh sát đã cảnh báo nhưng không ai trả lời, đồng thời một cảnh sát bị một con dao từ phía sau cái lu phóng trúng gây thương tích, do vậy đã bắn súng để hạ tên nghi phạm.
Kiểm tra tại cái lu, bên trong là Vương Lưu Hùng đã bị cắt tay chân, móc mắt, đục tai. Qua khám nghiệm cho thấy Vương Lưu Hùng đã bị gây thương tích như trên từ cách đây khoảng một tháng. Kiểm tra dạ dày, phát hiện có thịt, qua giám định là thịt người và thịt của chính Vương Lưu Hùng. Tại bếp còn có mười một cái bánh Trung Thu, trên khắc chữ 吉祥 (Cát Tường) , bên trong nhân thịt, qua kiểm tra là thịt người.
Tiến hành dò hỏi xung quanh, thời gian trước có người tên Khương Dật tá túc. Cảnh sát nghi ngờ Vương Lưu Hùng và Khương Dật đã cùng nhau giết người, làm thịt cho vào nhân bánh. Sau đó vì mâu thuẫn nên Khương Dật đã hạ thủ với Vương Lưu Hùng, sau khi gây thương tích cho một cảnh sát đã bỏ chạy.
Hiện Công an tỉnh … đang truy nã đối tượng tên Khương Dật.
Ngoài ra, cảnh sát nghi ngờ lò bánh này đã sản xuất trên bảy ngàn bánh các loại và tiêu thụ khắp nơi. Do vậy, nếu có bánh khắc hai chữ吉祥 (Cát Tường), đề nghị nhân dân giao nộp cho cảnh sát để tiếp tục điều tra.”
Vì lẽ trên mà từ đó trở về sau, bánh Trung Thu không còn khắc hai chữ Cát Tường nữa. Nếu có thì có lẽ, phải chăng thịt người là nhân bánh ấy? Nhưng đâu đó, vẫn còn nhiều người ăn những cái bánh có khắc chữ đấy…
“Vậy mọi chuyện sau đó ra sao?”
Tôi bất giác hỏi người vừa kể câu chuyện đó. Ông ta dáng mặt khắc khổ, bên hông đeo một miếng gỗ, hình như trên có chữ Lãm Thi Tiên.
“Sau đó thì…”
Ông ta trầm ngâm một chút, rồi lại tiếp.
“K’Nơ chạy về vùng Tây Ninh, vô tình biết được nguồn gốc tổ tiên của mình…”
“Vậy chắc ông ta đã được bình yên đôi chút?”
Tôi hỏi lại. Nhưng người này lắc đầu, buồn bã mà đáp.
“Không.. mọi thứ ở đó, chẳng còn gì cả… tất cả đã chết sau những câu chuyện kinh hãi khác..”
Tôi ngạc nhiên, liền hỏi vội.
“Ông kể tôi nghe được không?”
Nhưng lạ kỳ thay, người ấy đột nhiên biến mất ngay trước mặt tôi. Chỉ còn một cuốn tập giấy nhỏ có vẻ lâu đời.
Trên đó, chỉ vỏn vẹn vài chữ “làng Tượng Lâu”