Thấy ông Ba đang ngồi nói chuyện với mọi người, bỗng ông đứng dậy vụt chạy theo hướng ra bờ sông. Những người có mặt ở đó thấy vậy cũng chạy theo sau, khi ra gần tới bờ sông thì gặp con bé Nương và thằng Dần đang hớt hãi chạy vào. Vừa nhìn thấy ông Ba, Uỷ Nương liền la lớn:
– A! Sư phụ tới rồi!
Rồi cùng thằng Dần chạy nhanh đến chỗ ông Ba, ông Ba vội ôm hai đưa nhỏ vào lòng:
– Hai đứa không sao chứ? Có thấy được gì không?
Thằng Dần liền nhanh nhảu nói:
– Con không biết Uỷ Nương tỷ có thấy giống con không! Chứ con thấy ngoài sông có nhiều người lắm ạ, còn có cả quan thần sông hay sao ấy.
Nghe vậy ông Ba ngạc nhiên, nhìn sang Uỷ Nương hỏi:
– Còn con thì sao? Có thấy được gì không?
– Dạ, con cũng thấy giống với sư đệ ạ.
– Thế ông quan đó trông như thế nào? Dần con nói sư bá nghe xem nào!
Thằng Dần nghe vậy thì làm ra vẻ đăm chiêu, đưa ngón tay trỏ lên cằm nhịp nhịp làm bộ suy nghĩ nói:
– Con thấy ông ấy ngồi trên lưng Thần Quy, tay cầm một cây phất trần màu trắng. Cả y phục này, râu này, tóc này tất cả đều là màu trắng hết, theo sau ông ấy còn có nhiều người lắm sư bá ạ.
– Con cũng thấy vậy đó sư phụ!
Con bé Nương nghe thằng Dần nói xong, cũng chen vào nói. Nghe vậy ông Ba gật gù đăm chiêu suy nghĩ, ông Thành cùng với mọi người cũng đã ra tới chỗ thầy trò ông Ba. Sau khi nghe hai đứa nhỏ kể lại cho ông Ba nghe những gì nó thấy, thì ai nấy đều hoang mang lo lắng khi thấy ông Ba đăm chiêu suy nghĩ điều gì đó. Bỗng ông Ba quay sang ông Thành nói:
– Phiền anh Năm dẫn theo hai người, ra bờ sông xem mực nước sông có giảm đi hay nhiều hơn không. Chứ tôi thấy có vẻ như làng ta sắp có hoạ rồi đó.
Nghe vậy ông Thành dẫn theo hai người thanh niên, cả ba người cầm ba cây đuốc đi nhanh ra bờ sông. Chỉ một lúc cả ba người hớt hãi chạy vào, ông Thành vừa thở hồng hộc vừa nói:
– Nước… Nước sông không những không rút bớt, mà… Mà còn dâng cao hơn, bây giờ nước đã dâng cao đến đoạn dốc ra sông luôn rồi!
Nghe vậy ông Ba tặc lưỡi lắt đầu, rồi thở dài nhìn ông Thành nói:
– Ngài ấy đến để đòi người đấy, chứ từ lúc tôi cứu ba đứa kia. Thì trời đã tạnh mưa, mà bây giờ nước dâng cao như vậy là đến đòi người rồi. Trong ba đứa kia có một đứa hợp vía với cái đứa chết trôi kia, đúng ra sáng nay nó đã bị kéo xuống để thế chỗ cho cái đứa kia rồi. Nhưng do tôi cứu nó, nên đã đắc tội với Hà Bá rồi.
Nghe ông Ba nói vậy, thì người thanh niên bị kéo chân lúc sáng liền quỳ trước mặt ông Ba nói:
– Bác ơi! Như vậy là con nhất định phải bị bắt đi sao? Bác có cách nào giúp con không? Con không muốn chết như vậy đâu!
Thấy người thanh niên kia quỳ trước mặt, ông Ba vội đỡ anh ta đứng dậy nói:
– Ta đã nói rồi, đừng có quỳ trước mặt ta. Ta đã sai hai đứa nhỏ đi ra xem tình hình, thì ta đã có dự tính hết cả rồi. Không phải lo, cái chính là Hà Bá kia kìa, ta chỉ sợ ngài ấy không chịu thôi.
Nói rồi ông bảo mọi người cùng ông về nhà ông Thành, về đến nhà ông Thành ông Ba liền nói ngay:
– Bây giờ tôi cần mọi người giúp tôi chuẩn bị vài thứ, xong lúc nào tôi sẽ làm lễ để xin cho cậu kia lúc đó. Anh Năm với mọi người thấy thế nào, tôi biết bây giờ cũng đã khuya rồi. Nhưng nếu không làm nhanh, thì tôi cũng không giám chắc trong đêm nay nước có vào đến làng hay không đâu.
Ông Ba vừa nói dứt câu, thì ông Thành liền nói:
– Bà con ai đồng ý giúp anh Ba đây chuẩn bị đồ để làm lễ cho thằng Út thì giơ tay.
Thấy mọi người đều giơ tay đồng ý, ông Ba liền nói:
– Vậy là mọi người đều đồng ý hết, tôi cũng không vòng lòng nữa. Bây giờ tôi cần năm người, theo phụ với hai đứa nhỏ làm cho tôi mười hai hình nhân giấy, những người còn lại thì giúp tôi chuẩn bị một bàn lễ, tôi sẽ viết các thứ cần cho bàn lễ ra giấy để mọi người chuẩn bị. Còn hình nhân thì hai đứa nhỏ đã biết rồi, hai đứa nó sẽ chỉ cho mọi người nên làm như thế nào.
Sau khi được ông Ba phân chia công việc, mọi người bắt tay vào làm. Mỗi người một tay, ai làm việc nấy. Cánh đàn ông, thanh niên thì soi đuốc chặt tre, người làm khung sườn, người cắt giấy theo sự chỉ dẫn của hai đứa nhỏ. Mấy cô, mấy chị phụ nữ thì chuẩn bị mâm lễ. Riêng ông Ba thì chuẩn bị giấy tiền vàng mã, chẳng mấy chốc mọi thứ đều đã chuẩn bị xong theo yêu cầu của ông Ba.
– Ờ, anh Ba ơi! Anh xem thử như thế này đã đủ chưa anh? Mười hai hình nhân nam, mâm lễ tất cả đều đã chuẩn bị xong hết rồi, anh xem còn cần thêm cái gì nữa không?
Ông Ba đang cặm cụi viết sớ, vẽ bùa trong nhà, nghe tiếng của ông Thành hỏi vọng vào từ ngoài sân. Ông Ba dừng tay đi ra ngoài xem, ông nhìn qua một lượt theo hướng tay của ông Thành chỉ.
– Tất cả thì cơ bản là đã đủ rồi, nhưng tôi quên bảo mọi người làm một cái xuồng, thôi thì phiền anh Năm nhờ mọi người làm giúp tôi một cái xuồng nhỏ, kích cỡ vừa đủ cho mười hai cái hình nhân kia.
– Không cần đâu sư phụ ơi! Thằng Dần nó nhờ mấy anh kia làm xong rồi này.
Ông Ba đang đứng nói chuyện với ông Thành, thì con bé nương cùng thằng Dần đang kéo cái xuồng nhỏ chạy vào.
Thấy con bé Nương với thằng Dần kéo cái xuồng vào mặt đứa nào đứa nấy hớn hở, ông với ông Thành ra xem. Ông nhìn một lúc rồi gật đầu tỏ vẻ hài lòng nói:
– Tốt, tốt lắm. Thầy chưa nói mà hai đứa đã biết để nhờ mọi người giúp như vậy là tốt lắm, thôi hai đứa đi vào trong chuẩn bị đồ để lát nữa hộ pháp cho ta.
Hai đứa nhỏ nghe nói hộ pháp cho ông Ba thì mừng ra mặt, vội chạy vào trong nhà. Ông Ba nhìn lên trời rồi đưa tay bấm bấm gì đó một lúc rồi quay sang ông Thành:
– Sắp tới giờ rồi, anh Năm cho mọi người mang hết những thứ tôi nhờ mọi người làm, mang hết ra ngoài sông. Chuẩn bị một cái bàn nhỏ, hai chiếc xuồng và bốn người để chèo xuồng giúp tôi, tôi lấy thêm vài thứ rồi ra sau.
Nói xong thì ông Ba đi nhanh vào nhà, ông Thành kêu mọi người phụ giúp mang những thứ đã chuẩn bị ra bờ sông. Sau một hồi chuẩn bị thì tất cả những người có mặt đứng lùi lại phía sau, ai nấy đều hồi hộp chờ đợi để xem ông Ba làm phép. Một vài người xì xào bàn tán:
– Không biết ông ấy có phải thầy pháp không, mà nhìn cái áo ông ấy mặc cứ như là thầy pháp bên tàu ấy nhỉ. Chỉ mong sao ổng giúp được cho thằng Út, giúp giùm cho làng. Chứ nhỡ nước sông mà dân cao hơn nữa thì không biết bà con sẽ sống chết ra sao, chưa kể đến chọc giận Hà Bá thì làm sao mọi người dám bơi xuồng qua sông, hay là chài lưới giăng câu nữa.
Trong khi mọi người đang xì xào bàn tán to nhỏ, thì ông Ba cùng hai đứa nhỏ đang bận rộn bên bàn lễ. Phụ giúp cho thầy trò ông Ba, là ông Thành và cha con ông Hậu cùng với bốn người thanh niên. Bốn người này được ông Ba giao nhiệm vụ là bơi xuồng.
Khi thấy ông Ba khoác lên mình một bộ Đạo Bào màu xanh chàm, sau lưng thêu hình bát quái, trước ngực cũng thêu hình bát quái. Nhưng bên trong hình thêu bát quái trước ngực là thái cực âm dương, lúc bấy giờ mọi người không còn gọi là ông Ba nữa. Mà họ gọi ông là thầy Ba.
( Từ đây mình sẽ gọi ông Ba là thầy Ba như những chap trước )
Thầy Ba đứng trước bàn lễ, hai bên trái phải là con bé Nương và thằng Dần. Sau lưng thầy Ba là ông Thành, cha con ông Hậu và bốn người thanh niên. Phía sau họ là những người sống xung quanh bến đò, tất cả đều im lặng quan sát thầy Ba hành lễ.
Thầy Ba đứng trước bàn lễ im lặng, hết nhìn lên trời rồi lại nhìn ra sông. Trầm ngâm một lúc ông bắt đầu làm lễ, ông châm ba cây nhang đưa lên trước mặt lầm rầm khấn gì đó một lúc lâu. Sau đó cắm vào bát hương rồi quay sang bảo ông Thành:
– Anh Năm dẫn theo hai người cùng với thằng Dần, bơi một chiếc xuồng bơi ngược dòng dọc theo bờ sông. Còn anh Hậu thì dẫn theo hai người, cùng với con bé Nương bơi xuồng xuôi theo dòng chảy, nhớ là bơi dọc theo bờ sông. Còn thằng Út thì ngồi im sau lương ta nhắm mắt lại, dù có nghe thấy tiếng động hay tiếng nói gì kì lạ cũng không được mở mắt hay đứng dậy.
Nói xong thầy Ba tiến tới sát bờ sông nơi có hai chiếc xuồng, ông đưa cho mỗi xuồng một ít gạo và muối. Để ông Hậu và ông Thành rải dọc bờ sông, còn hai đứa nhỏ thì quan sát lúc xuồng bơi dọc bờ sông. Sau đó ông quay lại bàn lễ, ông thắp nến để soi rõ những chữ trong tờ sớ ông đã chuẩn bị sẵn từ trước.
Tiếng khua nước bì bõm phát ra từ mái chèo của hai chiếc xuồng bắt đầu di chuyển, thì cũng là lúc thầy Ba cầm tờ sớ lên đọc.
“Hương phụng hiến
Cúng dàng động đình thuỷ tộc tiền,
Long cung hà bá thuỷ trung tiên,
Tín chủ kiềng tương hương phụng hiến,
Thuỷ cung thuỷ giới cập uyên nguyên,
Nhất thiết ngũ hồ tinh bát hải,
Lưu tuyền khê hác cập chư xuyên,
Thâm trạch bích đàm chư động phủ,
Không trung phảng phất Phật ngự tiền vân……
Kim thời cung triệu thỉnh, bộ giáng mãn đàn diên.
Thiết dĩ: hoa diên kính khải, tín lễ túc trần, lự bài biện chi phất nghiêm, khủng vãng lai chi uế trược, tư bằng chú lực, dụng khiết hoa diên, giáo hữu tịnh uế chân ngôn cẩn đương trì tụng:
Dĩ thử linh thanh thân triệu thỉnh
Chân ngôn bất muội giao văn tri
Trượng thừa tam bảo lực gia trì
Thử nhật kim thời lai giáng phó.
án bắc đế tra thiên thần na la địa tra sa hạ.”
Tiếng đọc của thầy Ba vừa dứt, thì những người có mặt ở đó bắt đầu hoảng loạng. Khi mà thầy Ba vừa đọc xong, mặt nước đang tĩnh lặng. Bỗng nổi lên những gợn sóng vỗ vào bờ càng lúc càng mạnh, trời kéo mây đen và bắt đầu nổi gió. Nghe tiếng xì xào của mọi người ở phía sau, thì thầy Ba quay lại nhìn mọi người nói:
– Cảm phiền bà con giữ im lặng một chút, sẽ không có chuyện gì xảy ra với mọi người đâu, nếu ai thấy sợ thì có thể về nhà anh Năm đợi.
Nói rồi thầy Ba quay lại bàn lễ, đợi một lúc gió cũng đã ngừng thổi, chỉ còn lại những cơn sóng cứ vỗ ào ạt vào bờ mỗi lúc một mạnh hơn. Bỗng thầy Ba tiến nhanh ra sát mép nước chắp hay tay cung kính chào, mọi người đứng nhìn thì không thấy được gì ngoài nước là nước. Nhưng mà thầy Ba thì khác, ông cung kính chào một ông lão râu tóc bạc trắng, tay cầm phất trần ngồi trên lưng một con rùa đang từ từ tiến vào bờ.
Những người có mặt ở đó, ai nấy đều há hốc mồm kinh ngạc. Khi họ thấy thầy Ba đứng nói chuyện với một con rùa ?, họ kinh ngạc vì kể cả những người già hơn bảy mươi tuổi, cũng chưa từng thấy con rùa to như vậy. Riêng cái đầu của nó thôi cũng đã to bằng con bê rồi, huống hồ là thân hình của nó.
Nhưng họ chỉ thấy được mỗi con rùa chứ không hề thấy được ông lão ngồi trên lưng nó, khi thấy ông lão đã đến gần thì thầy Ba chắp hai tay cung kính cuối chào một lần nữa rồi nói:
– Phàm nhân là Trương Hải đệ tử đạo giáo, pháp hiệu Trương Hải. Hôm nay mạn phép cung thỉnh Hà Bá Gia là có một việc muốn thỉnh cầu, kính mong ngài lượng thứ.
Ông lão được thầy Ba gọi là Hà Bá Gia đang ngồi xếp bằng trên mai rùa, nghe thầy Ba nói vậy thì đưa tay lên vuốt vuốt chòm râu cười hoà ái nói:
– Sở dĩ ngươi lập đàn, dâng sớ gọi ta lên thì ta cũng đã biết ngươi muốn cầu xin ta việc gì rồi. Chỉ có điều tên tiểu tử kia số mạng phải chết nơi sông nước, nay được ngươi cứu mạng một lần. Và cũng có lòng muốn giúp hắn như vậy, thì ngươi nói ta nghe thỉnh cầu của ngươi là gì.
Nghe ông lão nói vậy thì thầy Ba tỏ vê vui mừng liền nói:
– Trương Hải không giám cầu xin gì, chỉ mong ngài soi xét giúp giữ lại mạng sống cho người kia. Trương Hải xin dâng ngài mười hai hình nhân để thế mạng.
Ông lão nghe vậy thì gật gù:
– Ngươi đã nói vậy thì ta sẽ tha cho lần này, nhưng nhớ trong thời gian ba năm tới không được đến những nơi sông suối, nếu trái lời thì ta không đảm bảo.
Thầy Ba nghe vậy liền gập đầu cảm tạ, sau đó kêu anh út đến đốt hình nhân cùng với chiếc xuồng rồi thả trôi theo dòng nước. Lúc anh Út chạy tới chỗ thầy Ba thì con rùa kia đã lặn mất, hai đứa nhỏ cùng với mấy người kia cũng vừa bơi xuồng vào. Thằng Dần nhanh miệng nói với ông Thành và ông Hậu:
– Hà Bá Gia đi rồi, ngài ấy tha cho anh Út rồi đấy.
Thầy Ba đốt thêm một ít vàng mã nữa thì gà cũng vừa gáy sáng, kể từ đó mọi người đều gọi ông là thầy Ba.
__________________________________
Một năm sau!
Vợ chồng ông Hậu lại có thêm niềm vui, sau khi anh Út là đứa con mà vợ chồng ông nhận nuôi sau khi chị gái ông mất nhờ ông chăm sóc, bây giờ nhờ thầy Ba giúp đỡ mà đã tai qua nạn khỏi. Gần mười năm chung sống với nhau, cuối cùng vợ chồng ông Hậu cũng có tin vui khi cả hai vợ chồng ông đều đã ngoài ba mươi tuổi. Thế nhưng niềm vui chưa dứt, thì ông Hậu đã phải chịu nổi đau mất đi người thân, ông đau đớn tột cùng nhưng ông đành bất lực. Ông bất lực trước sự độc ác tàn bạo của cha con nhà họ Lý…….
( Diễn biến câu chuyện ra sao thì mọi người vui lòng đợi 2 đến 3 hôm nữa, mình tranh thủ thời gian để ra chương 8 sớm nhất )