Tây Nguyên một chiều cuối đông, cơn mưa như một làn hơi sương mịt mù phủ thẳng xuống những ngọn đồi triền miên bất tận. Mưa Tây Nguyên lúc nào cũng thế, ì ạch và dai dẳng, ít khi nặng hạt mà đa số là lâm râm, rả rích đêm ngày.
Trong một căn nhà chòi thô sơ, được ghép bằng đôi ba tấm ván, lợp thêm vào vài miếng tôn đã rỉ sét để chống nắng ngăn mưa, nằm trơ trọi trên đỉnh của một trong số hàng tá những ngọn đồi cà phê bát ngát, có ba đứa con nít trạc mười ba mười bốn tuổi đang chụm đầu bên bếp lửa, tranh thủ vừa sưởi ấm vừa nướng vài trái bắp để ăn cho đỡ đói.
– Đức này, lần sau chắc tao không đi bẻ trộm bắp cùng tụi mày nữa đâu.
Một trong số ba đứa trẻ vừa nhai bắp rau ráu, vừa nói.
– Vì sao?
Đức, thằng có mái tóc xơ xác cùng làn da rám nắng, nhỏ người nhất trong bọn hỏi lại.
Thằng bé kia ném cái cùi bắp đã được “cạp” sạch sẽ không còn một hạt vào trong xó nhà, lấy tay quệt quệt miệng, trả lời:
– Hôm qua tao nghe ba tao nói, vườn của người dân tộc có “Thần giữ của”, mình léng phéng mò vào, trộm đồ trong vườn nhà họ thì cũng có ngày bị Thần ám vào người, không chết thì cũng bị điên đó!
– Tao thấy Thần chưa ám mà mày đã bị điên rồi đó Hùng! Ha ha! Ma cỏ gì, hôm qua tao mới đọc báo, thấy có viết là thế giới này không có ma đâu mày. Ví dụ như ma trơi đó, người ta có nói là do khí bốc lên từ xác chết, lên khỏi mặt đất, gặp không khí là bốc cháy thôi. Mày cứ nghe ông già mày hù dọa, yếu bóng vía đến thế là cùng! Ổng nói vậy để mày không đi phá làng phá xóm nữa chứ gì!
Thằng Hùng giống như bị đả kích trầm trọng về mặt tinh thần và niềm tin, vội cãi lại:
– Sao lại không có được? Nói cho tụi mày biết, bà nội tao ngày nào cũng kể chuyện ma cho tao nghe, bà còn nói ông nội tao khi còn sống chính là Pháp sư trừ tà đó!
– Cái gì Pháp sư? Pháp sư trừ tà?
– Lợi hại như vậy?
Hai đứa kia mặc dù hỏi vậy, nhưng lại cố mím môi để không bật cười, căn bản là chẳng đứa nào tin lời thằng bạn mình vừa nói.
Thằng Hùng hếch hếch cái mũi nhỏ, dõng dạc nói tiếp:
– Đúng, chính là Pháp sư trừ tà! Ông nội tao lợi hại lắm, có thể kêu gió gọi mưa, khiến người chết oan được đầu thai, chuyên đi diệt trừ ác ma và quỷ dữ! Bà nội nói, ông tao còn có thể đi lại trên mặt sông như đi trên đất bằng!
Tới đây thì hai đứa kia đã không thể nào nín cười được nữa, cả hai đứa ôm bụng cười ngặt nghẽo, cười đến bò lăn bò càng. Thằng Hùng thấy vậy liền tức đến đỏ mặt, không thèm nói gì nữa mà đứng phắt dậy, bỏ về, dẫu cho trời đang mưa.
.
.
.
Thị trấn Di Linh là một thị trấn nhỏ, nghèo nàn nằm dọc trên con đường quốc lộ 20, ở ngay giao điểm của hai tuyến đường: Sài Gòn – Đà Lạt và Đà Lạt đi Phan Thiết. Ngày xưa, nơi đây chỉ là một cùng núi đồi chập chùng, rừng sâu núi thẳm, âm u đến khôn cùng. Mãi đến khi người Pháp bắt đầu khai phá Tây Nguyên, những con đường mới bắt đầu xuất hiện, không ngừng mở rộng ra khắp các vùng miền. Có đường đi lại, dân tứ xứ mới tụ về đây, dần dần hình thành nên thôn xóm, rồi trở thành thị trấn.
Cách thị trấn Di Linh khoảng hơn năm cây số có một thôn nhỏ hẻo lánh, không tên. Trong thôn chỉ có khoảng gần hai mươi hộ, nhà cửa cách xa nhau chứ không được san sát như ngoài phố, nhà nhà được ngăn cách bởi những hàng cà phê xanh um.
Lúc này, đêm đã về khuya, cơn mưa ban chiều đã tạnh hẳn nhưng trong không khí vẫn còn đậm hơi sương. Bầu trời đêm không một ánh sao, những tiếng ếch kêu, dế gáy vang lên rộn rã phía sau hè. Hùng chống cằm, dựa tay vào cửa sổ, trầm ngâm nhìn về phía xa xa. Còn đang mải mê chìm đắm trong dòng suy nghĩ miên man thì bị một tiếng động lạ làm cho giật mình, nó vội kêu lên:
– Ai đó?
– Suỵt! Tao đây, Hiền đây.
Ra là đứa trẻ còn lại trong số hai đứa bạn thân “duy nhất” của Hùng. Nói là duy nhất, bởi vì trong cái thôn nhỏ xíu như cái móng tay này chỉ có ba đứa là cùng lứa, trạc tuổi như nhau nên mới chơi chung từ thuở bé, ngoài ra cũng chả còn ai cả.
– Trễ rồi, mày còn qua đây làm gì?
Không đợi cho thằng Hiền trả lời, từ trong bụi cây gần đó, giọng nói của thằng Đức lại vang lên, nhỏ xíu và vo ve như tiếng muỗi kêu:
– Nói nhỏ thôi. Còn giận tụi tao à?
Hùng im lặng không đáp, chỉ hừ một tiếng trong miệng, làm như không nghe, không thấy. Thằng Hiền lặng lẽ lủi tới gần cửa sổ, cười hê hê, nói:
– Thôi, đi ra đây với tụi tao, rồi mày sẽ thấy.
– Thấy cái gì?
– Thì mày cứ đi đi. Leo ra đây, đừng để cho ông bà già biết, đi một lát thôi rồi về, nhanh mà!
Mặc dù vẫn còn ấm ức vụ hồi chiều, nhưng không ngăn nổi sự tò mò đang trỗi dậy trong lòng, Hùng ừ một tiếng rồi leo vù vù qua cửa sổ. Cứ nhìn hành động nhẹ nhàng và lưu loát của nó mà xem, chắc chắn đây không phải là lần đầu nó trốn nhà đi chơi đêm.
.
.
.
Ba đứa trẻ chạy nhanh trên con đường đất được trải sơ một lớp đá vụn cho khỏi lầy lội khi trời mưa. Con đường tối đen như mực, lại lởm chởm những đá cùng ổ gà này cũng là đường ra khỏi thôn, theo lối này mà đi thẳng thì chẳng mấy chốc sẽ ra tới thị trấn.
Thắc mắc đã lâu mà hai đứa kia vẫn cứ nín thin thít, không nói rõ là đi đâu, Hùng không nhịn được mà mở miệng hỏi thêm lần nữa:
– Rốt cuộc thì tụi mày định dắt tao đi đâu? Lần trước ăn trộm xoài bị người ta bắt gặp, tới tận nhà mắng vốn ba mẹ tao rồi. Giờ ông bả cấm không cho đi đêm nữa, theo tụi mày tới đây là xa lắm rồi đó, còn không nói là tao đi về đó nha!
Thằng Đức vừa thở hổn hển, vừa quay sang nói:
– Yên chí đi, nhanh thôi mà, sắp tới rồi nè. Lúc chiều mày đi về rồi, tụi tao nghĩ đi nghĩ lại rồi nhất trí như sau: Mày quá mê tín dị đoan, cho rằng thế giới này có ma thiệt, điều này là không tốt chút nào! Theo như mấy anh chị bên Đoàn thanh niên của Xã nói, mê tín dị đoan là tệ nạn của xã hội nên cần phải bài trừ! Vì tương lai con em chúng ta, vì một Việt Nam tươi sáng và giàu đẹp, tụi tao quyết định cần phải khai thông tư tưởng cho mày gấp!
Thằng Hiền nói thêm vào:
– Đúng vậy, nên tối nay tụi tao sẽ dắt mày đi tới “ngôi nhà ma”! Chứng minh cho mày một sự thật hiển nhiên là: Trên đời này chả có ma cỏ ráo gì cả! Chỉ có “ma đầu đen” thôi, hê hê!
– Cái gì? Giỡn hả mấy cha nội? Dẹp mấy cái chuyện vì tương lai, vì đất nước gì gì đó qua một bên đi, cóc ai tin đâu. Mà, tụi mày muốn chết hay sao mà giữa đêm giữa hôm kéo theo tao, mò vào cái chỗ chết tiệt đó?
Thằng Hùng vừa nghe xong liền cảm thấy như có một cơn ớn lạnh chạy dọc sống lưng, da gà nổi lên rần rần, vội thét lên. Thế nhưng thiểu số thì phải phục tùng đa số, cộng thêm sự thách đố cũng với khích tướng của hai thằng bạn thân, cuối cùng, nó cũng đồng ý tiến vào cái nơi được mệnh danh là “ngôi nhà có ma”, nổi tiếng khắp Xã này…
.
.
.
Ngôi nhà ma nằm trên đỉnh của một ngọn đồi gần ngã ba đầu thôn, nó vốn là một cái lô cốt của Mỹ – Ngụy để lại, sau ngày giải phóng liền bỏ hoang, không ai dám ở. Một dạo kia, có hai vợ chồng người miền Tây lên Di Linh làm nghề hái cà phê thuê cho người ta, vì không có nơi chốn đàng hoàng, trong tay lại không có tiền, nên bạo gan, dọn vào cư ngụ.
Thời gian đầu, bà con ở gần đó, kể cả chủ của khu vườn có cái lô cốt này cũng ra sức khuyên can, bảo rằng khi trước có rất nhiều lính Ngụy chết trận tại đây, lâu rồi mà oan hồn của họ vẫn vất vưởng không tan, hầu như đêm nào cũng hiện về gào khóc, chuyện lạ xảy ra nhiều không đếm xuể. Ở cái đất này, có ai mà không biết chuyện cái lô cốt Mỹ tích tụ đầy âm khí? Bởi vậy, hễ có chuyện phải đi ngang qua đây, người ta đều phải vòng lối khác mà đi, thậm chí ghé mắt nhìn vào cũng không dám.
Biết là vậy, nhưng người vào đường cùng, tiền công làm thuê làm mướn cho người ta thì chưa có, với lại hai người tay trắng đi lập nghiệp, sợ rằng nếu có tiền cũng không đành bỏ ra để thuê nhà chỗ khác nên đại khái hai vợ chồng chỉ cảm ơn cho qua chuyện, sau đó tiếp tục sinh sống tại đây.
Hai vợ chồng ngày ngày thắp nhang cúng vái, không bỏ sót bất cứ ngày nào, thậm chí cả ngày rằm, lễ tết cũng nhang khói, trái cây đầy đủ. Một tháng trôi qua, không có bất kỳ chuyện gì xảy ra, cả hai tự cho là đã đủ thành tâm, tin chắc oan hồn người chết cũng không gây khó dễ với hai vợ chồng nghèo nát như mình. Nào ngờ đâu, một năm sau, khi người vợ hoài thai đã đủ chín tháng mười ngày, trong một đêm mưa bão đã hạ sinh được một bé trai thì câu chuyện mới xoay chuyển theo một chiều hướng khác, một chiều hướng mà bất cứ ai, cho dù là người có óc tưởng tượng có tốt đến đâu cũng không hề nghĩ tới…
Đứa bé vừa sinh ra đã gầy yếu, vàng vọt, cho dù hai vợ chồng có ra sức chăm bón đến đâu thì cũng không lớn nổi chút nào. Đã vậy, hai mắt của nó cứ ngày một lồi ra, cả chớp mắt nó cũng chưa từng chớp qua một cái, kì dị không thể tả. Chưa dừng lại ở đó, hầu như cả ngày nó không khóc, không cười lấy một lần, chỉ bật cười lúc nửa đêm. Chỉ là một đứa bé sơ sinh, lại có thể cười to và giòn giã, tiếng cười trầm bổng, vang vọng giữa đêm khuya khiến hai vợ chồng càng ngày càng cảm thấy bất an và sợ hãi vô cùng.
Cho tới một chiều nọ, người chồng đi làm về không thấy vợ con mình đâu, bếp núc thì lạnh tanh, cơm canh không ai nấu, liền vội vã đi tìm. Đi hết nhà hàng xóm mà không một ai hay biết, về nhà đợi đến sập tối mà vẫn chưa thấy vợ mình về, người chồng càng thêm sốt ruột, vừa nhấc mông lên khỏi ghế, định đi tìm thêm một vòng nữa thì một giọng cười quen thuộc của trẻ nhỏ bỗng vang lên ở phía sau nhà.
Vội vã đạp cửa bếp chạy ra phía sau, ập vào mắt anh ta là hai chân của người vợ đang đong đưa trên mặt đất, một sợi dây thừng nối liền cổ của cô ta và cành cây phía trên. Người vợ gục hẳn đầu qua một bên, thân xác khẽ đưa qua đưa lại nhịp nhàng như quả lắc. Một cơn gió nhẹ thổi qua, hất mái tóc rối bù đang che lấp gương mặt, để lộ hai mắt đang trợn trừng, cái miệng mở to, trên mặt cô hãy còn hiện rõ nét kinh hoàng! Còn đứa trẻ kia…, con cô, nó đang ngồi vắt vẻo trên vai cô mà cất tiếng cười quái dị!
Mất vợ, nhưng người chồng lại bình tĩnh đến đáng sợ, anh ta nhẹ nhàng tháo dây thừng, đem xác vợ vào nhà rồi đặt lên giường cẩn thận. Sau đó, một tay ôm đứa trẻ, tay còn lại nắm lấy bàn tay đã lạnh ngắt của người vợ xấu số, người chồng quỳ suốt một đêm.
Sự việc xảy ra hôm đó đến tận mấy hôm sau mới có người hay biết, khi họ vào nhà, chỉ thấy máu chảy lênh láng khắp sàn, máu tươi nhuộm đỏ cả bốn bức tường trống không. Xác người vợ đã bắt đầu thối rữa, nằm ngay ngắn trên chiếc giường gỗ. Còn người chồng, anh ta được tìm thấy ở dưới bếp, đã chết vì một nhát dao đâm thẳng vào tim. Khi khám nghiệm tử thi của người chồng, cuối cùng người ta đã tìm thấy đứa trẻ. Nó chỉ còn là một đống máu thịt lẫn lộn với tóc và xương…
.
.
.
– Tao đã nói là đừng có đến đây rồi mà! Mẹ kiếp, bây giờ quay lại vẫn còn kịp đó! Có lần tao nghe người ta bảo, năm xưa đám ma quỷ trong cái nhà này nhập vào đứa nhỏ, giết vợ ổng nên ổng mới ăn thịt nó luôn! Tới đây là được rồi, về thôi tụi bây…
Trong đêm tối, ba đứa trẻ vạch cỏ dại mọc đến lưng chừng hông, lần theo con đường mòn để lên đỉnh đồi. Thằng Hùng vừa đi vừa làu bàu, dù cho có hai thằng bạn gan to bằng trời ở ngay bên cạnh, cu cậu vẫn cảm thấy hoang mang và sợ hãi, rụt rè bước từng bước một.
Thằng Hiền ở ngay phía sau đẩy thằng Hùng một cái, nói:
– Có tao ngay đây, thằng Đức lại đi trước mở đường, mày còn sợ cái quái gì nữa? Đi tiếp đi, lẹ lẹ rồi còn về. Mà lạ quá, mày nhắc tới cái vụ đó tao cũng thấy ớn lạnh rồi nè!
– Thôi hai ông im miệng dùm đi. Mở miệng ra là ma với chả quỷ, nghe ớn chết bà! Cứ theo sát tao, tao sẽ dắt tụi mày vào căn nhà đó để mở rộng tầm mắt, xem thử rốt cuộc thì có ma hay không?
Thằng Đức vừa gạt đám cỏ dại đằng trước, vừa ngoái lại nói với hai đứa đằng sau, nhìn nó nhỏ người như vậy, nhưng xem ra lại là đứa gan lì nhất bọn, chả biết sợ hãi là cái gì cả.
Hai đứa kia nghe vậy thì chỉ biết ngậm miệng, ngoan ngoãn đi theo. Chả mấy chốc đã đi hết con đường mòn, lên được tới đỉnh đồi. Càng lên cao gió càng mạnh, gió rít từng hồi qua tán lá, nhành cây, nghe xào xạc và thê lương khôn xiết. Ba đứa trẻ đứng sát vào nhau, cố căng mắt ra để nhìn cho rõ, chỉ thấy bốn phía xung quanh mịt mờ, tối đen như mực, nhìn đâu cũng chỉ thấy một mảng âm u đầy ma quái.
Cái lô cốt thời Mỹ – Ngụy ẩn khuất sau một đám cây mọc um tùm, san sát như dính vào nhau, phải đi tới hơn hai chục mét nữa thì mới thấy rõ. Vừa nhìn vào những bức tường phủ đầy rêu, khắp sân đầy cỏ dại, bất giác cả ba đứa đều cảm thấy tim đập bình bình như trống trận trong lồng ngực. Lúc này chỉ cần một đứa hô lên “Có ma!” hoặc là quay mông bỏ chạy, đảm bảo hai tên còn lại cũng sẽ đồng loạt vắt giò lên cổ mà chạy xuống đồi!
Tuy nhiên, chưa thấy quan tài thì chưa đổ lệ, thằng Đức cất giọng nói run run như sắp hụt hơi, không biết là đang cố trấn an đồng bọn hay là tự an ủi chính mình:
– Tới thôi… tụi mày, nhớ đi sát tao nha, không được bỏ chạy trước đâu đó! Yên tâm, không sao đâu, chắc chắn không có gì đâu, tao đảm bảo là trong đó không có cái gì cả… chắc chắn luôn…
Hai đứa kia đồng loạt gật đầu, tuy trong bóng tối không thấy rõ mặt, nhưng có vẻ mặt mũi đứa nào đứa nấy cũng đã tái xanh.
Thằng Đức nhón chân, dắt theo hai thằng bạn đang run lập cập, từ từ bước vào khoảng sân trước nhà. Một cơn gió mang theo hơi sương lạnh buốt từ đâu thổi ngang qua khiến cả ba đứa rùng mình ớn lạnh. Tiếng cửa sắt bị gió thổi lung lay, đưa ra đưa vào nghe kẽo kẹt đến đáng sợ, thế nhưng ba đứa trẻ thường ngày không sợ trời không sợ đất, tới đây mà vẫn chưa chịu lùi bước, mặc dù bước đi càng lúc càng khó khăn, bàn chân nặng tựa đeo chì, nhích lên từng chút một.
Vì từng là lô cốt, được xây bằng đá tổ ong hết sức chắc chắn nên qua bao nhiêu năm tháng bị bỏ hoang, nơi này vẫn còn vững chải như ngày nào. Phía ngoài của bốn bức tường to dày bị rong rêu bao phủ đến tận nóc, trong đêm tối nhìn vào chỉ có cảm giác xám xịt và lạnh lẽo đến tận xương. Bên trong nhà cũng chẳng có đồ đạc gì nguyên vẹn, cái giường đặt xác người vợ năm xưa đã bị người ta đốt từ lâu, đồ đạc trong nhà có lẽ cũng đã bị đem đi tiêu hủy cả, ngoại trừ bốn bức vách được quét lên một lớp vôi trắng nhằm che đi những vệt máu năm xưa, trong nhà chỉ còn lại một đám gỗ vụn, vài viên gạch nát và một số tờ lịch treo tường nằm lăn lóc nơi xó nhà.
Cũng bởi đã bị bỏ hoang phải hơn chục năm, tất cả đều nhuốm màu tro bụi, tơ nhện giăng kín khắp nơi, trong không khí ngập tràn một mùi ẩm mốc và một chút khí lạnh do thiếu vắng hơi người.
– Tao đã nói rồi, mày nhìn đi, căng mắt ra mà nhìn cho kỹ, coi rốt cuộc thì có con ma nào không?
Có lẽ do đã vào trong nhà rồi, lại thấy nó bình thường như mọi ngôi nhà hoang khác, hơn nữa, từ lúc nãy cho tới giờ cũng chẳng có gì xảy ra nên thằng Đức mới cảm thấy đỡ căng thẳng hơn một chút, mở miệng châm chọc thằng bạn mình.
Hùng nhìn quanh, ánh mắt lướt vội một vòng rồi vội nói, giọng nói gấp gáp:
– Rồi rồi, tao chịu thua là được chứ gì! Tao công nhận là ở đây không có… Ma!!!
– Ha ha! Vậy là cuối cùng cái đầu cứng của mày chịu mềm ra rồi hả? Mày chấp nhận ngay từ đầu thì có phải đỡ hơn không?
Thằng Hiền cũng mở miệng cười, nhà ma gì chứ? Vào tới tận nơi rồi cũng có thấy gì đâu? Mà kì lạ nha? Sao thằng Hùng nó cứ chỉ chỉ cái gì về phía mình vậy? Quay qua, lại thấy mặt cười của thằng Đức như xơ cứng cả lại, thằng Hiền vội hỏi:
– Sao vậy mày? Thằng Hùng đã nói là chịu thua rồi kìa, tụi mình đi về thôi chứ?
– Sau… sau lưng mày… cái… cái bóng…
Thằng Đức lắp ba lắp bắp, nặn mãi mới ra được một câu lủng củng, chả ra hồn vía gì cả, thằng Hiền chỉ nghe được hai chữ sau lưng, cũng thắc mắc không biết ở sau có gì mà khiến hai đứa nó sợ hãi đến như vậy, liền quay đầu lại nhìn.
Không nhìn thì thôi, vừa nhìn, tim thằng Hiền như muốn văng ra khỏi lồng ngực, nó muốn hét lên nhưng miệng cứ há hốc ra, mãi không phun nổi một chữ, hai chân như nhũn cả ra, thiếu điều muốn khuỵu hẳn xuống.
Ở bên ngoài, gió thổi nhiều nên hơi sương đã nhạt bớt, vầng trăng khuyết bị mây đen bao phủ trên bầu trời cũng đã lộ ra từ lúc nào, ánh trăng vàng nhạt phủ xuống mặt đất một màu mờ mờ ảo ảo. Dưới ánh trăng nhợt nhạt ấy, trên bức tường đối diện bỗng hiện ra một cái bóng màu xám xịt, khi tỏ khi mờ. Cái bóng này tựa như bị một thứ gì đó treo lên nhành cây, liên tục lắc qua lắc lại như thoi đưa, rõ ràng có hình dạng một người treo cổ. Ở chỗ này, người duy nhất bị treo cổ còn không phải là người vợ đã chết kia sao?