Từ xưa tới nay thì lệ trên núi cũng không quy định, thế nhưng các tổ núi Vu đều chỉ nhận rất ít môn sinh là người, thường chỉ vài ba người hoặc chỉ có một người, những người được các tổ nhận để duy trì hương hỏa thường luôn là người huyền nhân u ẩn, có căn cơ sầu mầu, còn ngoài ra thì đa phần đều là nhận âm binh để rèn luyện cho chúng nó, tích công đức cho chúng nhanh được siêu thoát.
Năm ấy huyền ca thất tổ qua đời vì chết bệnh trên núi, truyền lại ngôi Bát Tổ cho đệ tử hiệu là huyền ân, ngay khi ngài vừa lên ngôi tổ thì giao núi lại cho quỷ Triết Từ Nghi, bấy giờ đang mang thân khỉ, còn mình thì mang theo tướng a rá di xuống núi đi vân du, một hôm nọ Bát Tổ đi qua một rừng, rừng ấy hoang Vu, có tên gọi cúc phương, ngài tìm thấy trong rừng ấy một đứa trẻ thơ, sinh ra rơi rớt bị cha mẹ bỏ, nhưng lại được khỉ núi cưu mang, khi ngài thấy thì người ấy vẫn còn đang nhỏ, chẳng biết ăn uống nói cười, ngài liền đem lên núi mà nuôi dưỡng cho lớn lên, vì người ấy có căn huyền trong người nên muông thú không nỡ hại, ma quỷ chẳng nỡ bắt, lại do có căn số phước lành tích được nên được bình an như thế, người ấy lớn lên trên núi Vu, đạo hành sâu xa, học hỏi đều nhanh, tổ huyền ân thương lắm, đặt cho hiệu là Huyền Đỉnh, tên thường gọi là Bách, định sau này để cho lớn lên kế cận.
Rồi năm tháng trôi đi, khi Bách lên đến tám tuổi, một lần xuất sơn thì Bát Tổ lại đưa về tiếp một đứa trẻ, cha mẹ nó chết trong dòng nước lũ, chỉ còn một thân ngoi ngóp lặn ngụp giữa dòng, nhưng nó không chết mà bám vào bẹ chuối, thầy Huyền n mở mắt pháp ra xem thì thấy dưới bẹ chuối ấy có tám con quỷ giữ cho không chìm, lại tạo gió tọa xoáy nước dòng để đẩy dạt về bờ, thầy thấy có điềm lạ, liền cứu vớt lên bờ như thế, rồi lại cũng đưa về núi nuôi dưỡng, lấy cho hiêu là Huyền Y, tên thường gọi là Nam. Thế rồi cả ba thầy trò cứ thế tiếp tục sống hương hỏa giữ gìn cho núi. Huyền n có hai trò là Bách và Nam như thế thì mừng lắm, thế nhưng lại chẳng được như ý, khi lớn lên thì Bách lộ ra bản chất máu lạnh, đạo lý tuy thông hiểu hết nhưng lạnh lùng vô cùng, không kết thân ai, đi lại đều một mình, xem quỷ thần núi Vu đều chẳng ra gì, về sau phạm phải tội bất kính mà bị Huyền n đuổi đi, còn Nam sau này lớn lên thì tìm hiểu về huyền môn, biết được những điều thị phi xung quanh, suốt ngày làm bạn với ma quỷ, phải sống kiếp người u ẩn cô độc nên sinh tâm chán ghét, lại chỉ muốn sống cuộc đời bình thường, vậy nên đã xin thầy cho xuống núi, gửi vào nhà con dân, cho đi học, từ bỏ huyền môn trở về làm người thường.
Bát Tổ từ đó lại lủi thủi một mình, vẫn đi tiêu dao khắp nơi xem việc giúp người đời thế nhưng trong lòng vẫn canh cánh nỗi lo không có người kế cận, phụ sự ủy thác của các tổ.
Bỗng một ngày nọ tổ xuất sơn xuống núi tình cờ gặp được đứa trẻ bị chết đuối, lại ngay trên một khúc sông có nhiều ma quỷ tà ám, lại mở mắt pháp ra xem thì có ma quỷ trùng trùng bủa vây trên đầu lôi bắt đi, thế nhưng người đó vẫn nỗ lực vùng vẫy dưới dòng nước xiết, không cam tâm chịu chết, lại thấy trên đầu người ấy có ba bóng quỷ đang chờ sẵn đưa đi, liền biết chúng là tam quỷ chỉ bắt người u ẩn, tổ liền động lòng thương mà cứu cho, sau này báo cho địa chỉ, để cho người ấy tự mình định đoạt.
Quả nhiên thời gian sau, người thanh niên rất lạ ấy đi tới núi, người ấy họ Hồ Sĩ tên Hạ, tìm lên núi theo Bát Tổ học đạo, tổ liền thu nhận ngay, người đó tính tình cương trực ngay thẳng, mang mệnh sơn đầu hỏa, tính nóng như lửa, xử phép rất nghiêm minh, chính trực, trong lòng lại có ngọn lửa thù hận cháy lên rừng rực, người ấy như thế nên làm gì cũng rất tập trung, lại ham học hỏi đèn sách không lúc nào ngơi nghỉ, ngày ngủ có năm tiếng còn lại đều luyện tập, lên núi ấy rồi thì học đạo rất nhanh, học một biết mười, ma quỷ lẫn người đều nể phục. người ấy khi theo Vu môn thì đã đánh đông dẹp bắc, trừ rồng trên sông, giết quỷ nơi thôn dã, lại giết cả người ác, định yên một cõi ngã ba đường rộng lớn, trừ biết bao nhiêu ma quỷ, thu phục chúng cũng nhiều, cứu độ cũng nhiều, ngay khi còn chưa thành tổ đã là người có chí cao vô thượng, không ai là không phục, …sau này núi Vu đắc tội với một vị thánh cô có hàng bồ tát đạo, oai lực vô song, lại dẫn dắt được tám vị thần bát bộ tùy ý sai khiến hành động, trong cuộc chiến ấy thì tam kiệt núi Vu đã chết mất hai, ngay cả Vu thần cũng mất khi đánh với thánh mẫu, chỉ còn duy nhất Hoả Thiên Di còn sống, rồi đến Bát Tổ huyền ân cũng đã mất, trước lúc mất liền trao lại ấn tổ ấy cho Hồ Sĩ Hạ, phong làm Cửu Tổ Vu sơn, lấy hiệu huyền vi, các quỷ đều tin phục, nhưng Cửu Tổ còn chưa chịu thôi, một lòng tiếp tục cuộc chiến trả thù cho thầy và các quỷ đã mất, vậy là lại tiếp diễn chiến tranh với vị thánh ấy, thế rồi cuối cùng cũng đành hàng không thắng nổi, lúc đó tất cả đều đã chết hết, chỉ còn sót lại Hoả Thiên Di và một số bóng quỷ được sơ tổ huyền phi và các tổ Vun đắp cho các thuật ẩn thân giấu mình thì mới khỏi chết…
Khi rời núi xuất sơn lần cuối cùng, Cửu Tổ đã phát ra lời thề đại nguyện, nếu như không chết mà thất bại quay về thì xin gieo mình xuống đáy vực sâu lấy thân trả nghiệp cho tất cả chúng âm binh mà quỷ đã chết trong cuộc chiến, do vậy khi thất bại trở về, Cửu Tổ liền nhảy xuống đáy vực tự vẫn, vậy là bảy con quỷ cuối cùng của núi Vu cũng nhảy xuống mà cứu, nếu không cứu được thì nguyện chết theo tổ, thế rồi khi xuống tới đáy vực thấy tổ đang thoi thóp, mất nhãn giới nên mắt đã mù lòa, mất nhĩ giới nên tai đã điếc, hơi thở yếu đuối sắp tăt, lại thấy tam quỷ đều đứng chờ trực, các thức của tổ đã gần như bay cả ra ngoài, chỉ còn a lại da thức yếu ớt sắp đi, các quỷ đều hy sinh hồn phách mà thay thế cho các thức của tổ để giữ sinh mạng cho tổ….
…
Kể xong câu chuyện Hoả Thiên Di liền quỳ xuống trước chân Gấu, cúi đầu nói:
“Hoả Thiên Di, hữu tướng quân Tiểu Di của núi Vu, một trong bảy con quỷ còn sống của núi Vu, chính là tôi đây, còn ngài, chính là Cửu Tổ Huyền Vi – Hồ Sĩ Hạ…sáu vong quỷ đã nát hồn để cứu sống ngài, nay đều đang ẩn hiện trên thân thể ngài, trở thành sinh mệnh của ngài, làm mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý của ngài, bọn chúng thường ngày ẩn sau cánh tay trái của ngài, do không có người cúng tế nên vào đêm rằm chúng lại thoát ra ngoài đi tìm hương hoa dưỡng đạo, hiện nay đang đứng đầy cả quanh tổ đây.”
Hoả Thiên Di vừa dứt lời chợt có tiếng người kêu than ai oán vang vọng cả căn phòng, chính là chúng quỷ đang òa lên khóc mà xót thương cho Gấu, chúng nó đều lặng người quỳ xuống chẳng nói năng gì, chỉ cứ vậy mà khóc…
Tiếng khóc của chúng nghe não nề thê lương, chợt Gấu thấy tai nghe lùng bùng, tay chân mềm nhũn cả ra, rồi tất cả như chìm vào khoảng không gian vô cùng tận , Gấu như lạc vào giữa đêm đen, lại thấy hiện ra miền kí ức tranh sáng tranh tối mập mờ chẳng rõ, khi thì thấy đang đi bộ trên con đường độc mộc qua một cây cầu đường sắt cùng với một người thiếu niên khuôn mặt khôi ngô, lúc lại thấy hình ảnh người phụ nữ hiền từ đang nằm bên giường mà đút cháo, người ấy cũng cứ than khóc không ngừng, thế rồi chẳng hiểu ra sao, kí ức lạc về đâu lại thấy đang đứng trên phiến đá cao, giữa núi rừng đại ngàn phiêu linh mịt mù, dưới chân là cơ man những rắn rết độc trùng, rồi những bóng đen lổm ngổm con bò con ngồi, tất cả đều quay vào mình mà khấu đầu cung kính…
Chợt những hình ảnh đó ùa về như những mảng kí ức, lúc gần như sát bên, lúc lại chợt như xa vắng, chẳng biết có thật hay không, chỉ biết là thân quen gần gũi, tới nỗi dù biết ngay cạnh đầy tiếng khóc than, dù biết chẳng có ai mà chỉ là tiếng khóc của ma quỷ, thế nhưng lòng vẫn chẳng mảy may lo sợ, chỉ xem đó như là việc thường…
Bấy giờ Gấu liền giơ một cánh tay lên rồi nói:
– Im!
Câu từ đơn giản, hành động dứt khoát khác với bản tính thường ngày hiền lành nhút nhát, nhưng sao không hề ngượng nghịu mà lại thấy hành động đó tự nhiên đến lạ như thể đã làm vậy nhiều lần…
Tức thì bốn bề im bặt, đêm tối tĩnh mịch lại như thường, ngỡ như còn nghe được tiếng ếch nhái kêu sau vườn nhà…
Các quỷ đều nín lặng thinh chờ hiệu lệnh…
Nhưng lạ thay tổ chẳng còn ra lệnh cho chúng như xưa…
Gấu chỉ ngồi im lặng mà thôi…
Thật là,
Trong đêm rằng, các quỷ lạy tổ sư
Niệm tình xưa, bước chân theo ma đạo.