Gấu lại hỏi:
– vậy kẻ đó như thế nào mà làm được thuật tách rời các quỷ ra khỏi tôi?
Kinh Ma Lạc nói:
– thuật tách rời được quỷ ra khỏi người có tên gọi dân gian là thuật trục vong, là thuật của các thầy bùa dùng để trục vong ra khỏi xác những người bị vong nhập, nhưng riêng trường hợp của Tổ có hai điều khác lạ như sau. Thứ nhất, chúng tôi đều là quỷ binh, là kỳ binh, đã quanh năm quen với chiến trận, khó trục hơn vong ma thường, nếu có thuật trục được chúng tôi, đó phải là thuật của người huyền nhân u ẩn, tên các Tổ đặt cho thuật ấy là thuật tách xác*. Thứ hai, chúng tôi không phải vong ám thông thường, mà là vong quỷ thần nắm giữ sáu quan căn của Tổ, giúp Tổ duy trì sinh mệnh, có thể coi như hòa đồng với Tổ làm một không có sai khác, như thế lại càng khó trị hơn nhiều so với vong ma thường. Tổ hãy nhớ lại khi xưa hỏa quan nhân muốn trục con nhớt đen ra khỏi người tiểu chủ câm, cũng phải nhập vào Tổ rồi làm lễ khấn vái rất hậu, kẻ huyền nhân kia chỉ dùng một cánh tay Vuốt lên tay Tổ, bắt ấn không đến hai mươi thế, bắt quyết chẳng quá sáu hồi, liền lôi được chúng tôi ra cả, không cần lập đàn lễ tế gì đã có thể làm tách xác, trục được vong quỷ thần ra ngoài mà vẫn bảo toàn được tính mạng cho người bị nhập, lại giữ nguyên được nội tạng cũng như giác quan, vậy có thể chăc chắn hắn phải là hàng huyền nhân u ẩn. thứ hai, hắn phải rất giỏi về các thuận trùng thân, thuật trấn yểm xác, phép linh tạng, phép y quán*.
(*Tách xác: cũng như thuật trục vong nhưng khó làm hơn nhiều, người hành giả làm phải cao tay ấn. *Thuật trùng thân: hành giả có thuật này giữ cho xác người chết không lạnh, kéo dài thời gian hấp hối, giữ được tám thức. *Thuật yểm xác: hành giả làm thuật đặt bùa vào xác, làm hồn người chết chịu sự thao túng trên một phương diện được quy định trên bùa. *Phép linh tạng: hành giả làm phép thao túng lên nội tạng con người. *phép y quán : hành giả làm phép đánh dấu lên cơ thể người, nhằm kiểm tra sự biến đổi trên cơ thể người bị đánh dấu.)
Gấu nghe xong thì lặng người hoảng sợ, rồi thầm thốt lên rằng:
– đã nghe cô Liễu nói vài lần về kẻ này, hắn rất giỏi nghề y, xem mạch bốc thuốc, rất giỏi mổ xẻ con người, có lẽ do phần nào là nhờ có năng lực huyền môn của hắn chăng? Thế hắn làm vậy có mục đích gì?
Chim đáp:
– điều ấy tôi cũng không biết, có thể hắn nhìn được điều huyền linh nơi Tổ, giới kết mà Tiểu Di quan nhân đánh dấu nơi tay Tổ không che được mắt hắn, do đó hắn muốn bắt chúng tôi về dùng…
Gấu thầm nghĩ…cạnh Liễu có người giỏi như vậy sao? Hắn không can gì thì thôi, chứ nếu hắn mà muốn hại thì cô bác sĩ làm sao chống đỡ nổi đây?
Nghĩ tới đó liền thấy hoang mang trong lòng, đột nhiên lại thấy dấy lên nỗi lo lắng mơ hồ cho Liễu không sao lý giải nổi…
Đoạn Gấu nhìn các quỷ liền nói:
– thôi tôi đã bình yên có nghĩa là căn cơ đã được hồi phục, các ông đều đã được tách ra an toàn, nay có ai muốn đi thì cứ đi đi tôi không cản trở.
Cả bốn con đều sợ hãi mà quỳ ngay xuống, con nào con nấy dụi vào người Gấu mà khóc lóc…
– Tổ lại muốn đuổi chúng tôi đi sao? Nay quan nhân đã mất, núi cũng chẳng còn, nếu Tổ đuổi chúng tôi thân cô biết đi về đâu? rồi lại cũng bị hàng pháp sư thầy bùa tróc lấy, xin Tổ thương mà cưu mang lấy cho…
Gấu nghe thế động lòng thương hại liền nói:
– điều ấy cũng được, nhưng nay các ông ở lại với tôi thì hãy bày cho tôi quyết yếu huyền môn, cũng như giúp tôi nhanh lấy lại kí ức.
Chim Kinh Ma Lạc nói:
– quyết yếu huyền môn mênh mông vô tận, hơn nữa căn cơ, giác quan, thần thức, cách thực học của quỷ và người đều có sai khác, chúng tôi thấp kém, đều là ma quỷ, không biết được hết thuật của huyền nhân, có Tiểu Di quan nhân là người đạo cao hơn cả, có thể chỉ dạy được nhưng nay đã không còn, điều trước nhất hãy tìm ra người dịch được sách phù thuật của Tứ Tổ, trong đó chắc hẳn phải có quyết yếu huyền môn, hoặc là còn một cách khác, đó là chữa chạy cho Tổ khôi phục ý thức a lại da, khôi phục trí nhớ tiềm tàng, xưa kia Tổ ở trên núi đã học hết quyết yếu huyền môn rồi, nếu như trí nhớ phục hồi, tự khắc quyết yếu, phù chú thần phù đều sẽ nhớ lại, sẽ tự biết cách luyện lại cho mình, không cần ai chỉ bày cho, cũng không cần ai dịch sách.
Gấu nghe thế thì phiền não bộc bạch với bọn chúng:
– bệnh ngoài thân tôi nay đều đã khỏi, chỉ riêng có ký ức sao mãi chẳng trở về, đoạn có đoạn không, tôi lấy làm đau buồn lắm, chẳng biết cha mẹ quê hương xứ sở giờ ở nơi đâu, còn hay đã mất, các ông có Vui lòng nói cho tôi không?
Chim thở dài nói:
– chúng tôi nói cho Tổ hay cũng được thôi nhưng cũng chỉ là nghe câu chuyện bát Tổ kể lại, khi Tổ lên núi sớm đã xa lìa thân quyến rồi, chi bằng tìm người cao nhân chữa bệnh rồi tự nhớ lại thì sẽ tận tường hơn. Khi xưa tới đền phủ của người thầy pháp đó, có nhắc đến vị danh y chuyên chữa được bệnh huyền, lại có tài dịch thuật được sách thiêng, hay ta thử đến đó một chuyến xem thế nào?
Gấu nghe chim Kinh Ma Lạc nói thế thì sực nhớ lại quả là khi ở sân phủ nắm lấy tay thầy bình nhờ dịch sách thì thấy có mách cho một vị thầy khác, tên là đại tuệ, trụ trì chùa lôi tích ở đất quảng hà, đoạn Gấu nói:
– việc này phải bàn với ông già coi sao đã, nhưng mà người này là thầy chùa, liệu tôi đến có tiện hay không?
Chim đáp:
– xin Tổ chớ có lo gì, nơi chùa thiêng vốn lại là nhà của Tổ, Tổ lại thường có thời gian ở chùa học đạo, công phu rất tinh tấn, từng mang hiệu pháp là diệu âm.
Gấu giật mình nói:
– có chuyện như thế sao? Chuyện đó ra sao hãy nói ta nghe, vì sao người theo đạo bùa chú âm binh lại có thể là đệ tử Phật?
Chim lại đáp:
– chuyện ấy nguồn lý sâu xa, chúng tôi không hiểu đạo Phật không dám nói bừa, chỉ biết rằng trong số các truyền nhân truyền đời của Vu sơn có ba người tinh thông Phật pháp, có căn cơ Phật gia, người thứ nhất là sơ Tổ huyền phi, vốn là người am hiểu Phật pháp sâu sắc, ngày lập nên núi cũng đã thuyết kinh Phật mà siêu độ cho ma quỷ trên núi, sau đó tới Tứ Tổ Huyền Ảnh chính là người thứ hai, cũng thường rất ngưỡng bái Phật đà, cho nên tìm hiểu trở lại, thế nhưng tới thời ngũ Tổ không ưa thích nên lại bãi bỏ, lại tới thời cửu Tổ chính là người thứ ba, mới lại gia nhập Phật môn, do đó xin cứ tới nơi đất thiêng chớ ngại, chỉ hiềm một điều khi Tổ tới đó chúng tôi không thể kề bên mà bảo vệ giống như khi ở phủ ông bình, Tổ trong nơi đất thiêng mà có cơ sự gì chúng tôi cũng không can dự được, ấy chính gọi là :
“cửa từ bi, ma quỷ khó vào.”
Gấu nghe thế thì trong lòng cũng hoang mang lo nghĩ, đoạn lại hỏi bọn chúng:
– nếu là ta xưa kia thì sẽ quyết thế nào?
Tức thì cả bốn quỷ không cần nghĩ ngợi gì, cùng đồng thanh đáp:
– cửu Tổ bây giờ gặp việc gì cũng sợ sệt hoài nghi, do dự không quyết, yếu đuối nhu nhược chẳng làm được gì, gặp gì cũng hỏi, làm gì cũng sợ, chẳng bảo vệ nổi ai, chứ cứ như Tổ xưa kia thì tính đường kiêu hãnh, kiêu hùng hiên ngang, lạnh lùng quả quyết, dù vào nước sôi lửa bỏng, dù phải một thân một mình dấn ra nơi sa trường cũng chẳng mảy may nghĩ ngợi, nói gì việc đi vào chùa như thế này đâu cần phải nghĩ, lại càng chẳng phải sợ hãi lo lắng.
Gấu nghe thế thẹn nhục đỏ cả mặt, cúi gằm xuống chẳng nói gì, tự thấy xấu hổ vô cùng, mãi sau mới hỏi nhỏ:
– tôi xưa kia thật như thế sao?
Bốn quỷ lại cùng chẳng phải nghĩ mà đồng tâm đồng lời nói:
– chính thế, chúng tôi chinh chiến đã nhiều năm, gặp không ít hạng người, người nào bản lĩnh ra sao chúng tôi xem qua là biết, Tổ xưa kia không sợ cả bậc tiên thánh, bậc quỷ thần, đối với hàng Bồ Tát cũng cãi lý ngang ngược, đối với hàng thầy chùa Tổ cũng thẳng tay gϊếŧ chết không cần nghĩ, đối với hạng người bất nhân thì Tổ chẳng tha, dù nó cầu xin tâm cũng chẳng động, nói một là một, hai là hai quả quyết vô cùng, tâm cao đức lớn, Tổ chẳng hay còn có nhớ ngài từng gϊếŧ rồng ở hạc giang (sông hạc), từng tróc quỷ tộc (rất nhiều trăm ngàn quỷ một lúc) ở Miểu Lộ( ngã ba đường miểu), từng trảm rắn gϊếŧ sư ở cam ấn mồ ( mộ bị phong ấn rất mạnh), từng gϊếŧ thần tu-la, từng gϊếŧ người trong lửa, từng đánh rồng bát bộ? Rồi còn rất nhiều điều khác, người thường sao kiêu hùng được đến thế?
Gấu nghe xong chợt thấy niệm cũ trong tìm, dù không nhớ ra được nhưng cũng thấy trong lòng như cuồn cuộn một niềm hào hùng xưa cũ, đoạn khảng khái mà nói:
– được, vậy đi tới chùa Lôi Tích.
Các quỷ nghe thế, đều quỳ xuống lạy.