Lại nói tới Đại Trí, từ khi bảy con quỷ thất bộ nhập vào người bảy năm về trước, đã chỉ ở trong phòng thiền, đi quanh quẩn trong chùa, ít khi bước chân ra khỏi phòng, dạo hai, ba năm nay đã thường già yếu, đi lại không được phải chống gậy, tọa thiền cũng chẳng còn được lâu, nửa năm trước các đệ tử đưa đi nhà thương khám bệnh thì nói thầy bị xơ vữa động mạch và suy giảm chức năng gan, thận, nội tạng của thầy đều không hoạt động tốt nữa, thường cũng lúc nhớ lúc quên, khoảng vào hai ba tháng trở lại đây thì sức khỏe thầy giảm xuống rất nhanh, các học trò thấy thế đều thương, Diệu Thiện và Nhất Quang đều tha thiết xin làm pháp sự để trục bảy con thất bộ ra ngoài, nhằm giữ cho nội tang thầy yên ổn nhưng thầy không chịu như thế nên đành thôi, cứ để mặc vậy.
Đến tầm một tháng trở lại thì đau yếu chỉ luôn ở trên giường, nhưng giáo hội tăng chúng đến thăm vẫn ngồi dậy được, nhưng mấy ngày trở lại thì không còn ngồi được lâu. Từ khi Diệu Thiện cùng với các sư chú đi về, thầy đã thường chìm vào mê sảng, ăn uống được rất ít, gần như cả ngày không ăn được gì nữa, đại tiểu tiện đi luôn tại giường, người lúc nào cũng kêu đau đớn, nằm trên giường lúc nào cũng rêи ɾỉ rất khổ sở, mỗi khi tỉnh táo được chút thì lại cứ hỏi han mọi người, mọi người đều đi đến lại giường cho nhận mặt.
Đến ngày hôm qua thì chìm vào hôn trầm, mê mờ, không còn nhận ra ai nữa, lúc nào cũng chỉ kêu rên mà nói với Diệu Thiện:
– đâu rồi, đâu rồi? Diệu âm nó về chưa con?
Tăng đoàn thấy thế đều thương đến trào nước mắt, Nhất Quang , Diệu Thiện cùng các sư chú, sư đệ lúc nào cũng chầu trực trong phòng riêng hơn cả chục người, cứ thay phiên nhau ngày cũng như đêm hầu hạ quanh giường, đi ra đi vào không lúc nào ngớt.
Bệnh chuyển càng ngày càng xấu đi.
Người bên trong không khí rất khẩn trương, các sư sãi đi nhẹ nói khẽ, đại chúng đều cảnh giác, trong chùa bặt không có tiếng cười đùa, phật tử đên thắp hương hay tin đều thường qua thăm nhưng không cho họ gặp, Nhất Quang phân người ra mà tiếp đón, chỉ thường để cho Diệu Thiện và các chú bên giường thân cận.
Tối hôm đó chú cháu cùng đang ngồi bên giường Đại Trí, thì Đại Tuệ liền nói với Diệu Thiện:
– thúc có lời nhờ, khi nào việc của anh xong, cháu mất công đi một chuyến tới chùa ta mà thuyết pháp cho phật tử cũng như sư nghe về giáo lý đại thừa, cháu thấy thế nào?
Diệu Thiện cười nói;
– những giáo lý ấy thúc còn đó, nào có đến cháu đi răn dạy cho ai?
Đại Tuệ liền nói:
– mỗi thế hệ đều có cách tiếp cận riêng, ở chùa ta bọn nó thường hằng mến mộ cháu, đối với ta bọn nó chỉ có sự sợ hãi mà thôi, nói đi khi chúng nó nghe không thấu được. hơn nữa còn một việc quan trọng hơn thúc muốn nhờ kín riêng, đó là chỗ thúc có ca bệnh khó nay đang điều trị tại chùa, muốn nhờ cháu đến xem cho giúp.
Diệu Thiện liền hỏi;
– ca bệnh thế nào?
Thúc nói;
– cháu có nhớ hôm trước khi đi thánh cô đã dự đoán có người quý nhân sắp tới chùa chăng? quả đúng như thế, người đó bị quỷ nhập rất linh dị, chú nhìn thế nào cũng không ra bệnh, nay cháu học rộng hơn chú, căn cơ mạnh bền hơn, lại có thánh cô đi cùng, thì cùng đến xem cho người ta xem thế nào.
Diệu Thiện cười nói;
– để lát cháu xin anh hai cháu đã, chuyện của thầy cháu rồi cũng chưa biết khi nào mới xong…thế người đó đặc điểm ra sao?
Thúc lại nói:
– người đó ngây ngô, mất trí, nhưng không phải là không biết gì, trên tay hắn có vết quỷ ấn, ta liền tìm ra cội nguồn là ở trên lưng nó có một hình xăm quỷ có vía rất mạnh, là hình xăm một con quỷ hai sừng, miệng có ngậm một con dao, trên dao khắc chữ “vu”.
Diệu Thiện nghe thế giật mình cả kinh, đang bối rối chợt nghe trên giường có tiếng rên hừ hừ, nhìn lại thì Đại Trí đã đang hồi tỉnh, đoạn nắm chặt lấy tay Diệu Thiện mà rên lên:
– Diệu âm…là nó đấy….tìm nó đến đây cho ta….
Nói đoạn hộc ra một ngụm máu miệng, rồi ngất lịm đi. Người trong phòng hoảng sợ vội dìu đỡ lau người cho, còn lời nói thì cho là vì sắp chết, nhung nhớ quá mà nói mê, nên không để ý…
Tầm hơn một tiếng sau thì tỉnh lại, nhưng lạ thay lần này chẳng còn rêи ɾỉ mà tỉnh táo sáng suốt lạ thường, người vừa tỉnh lại liền cho gọi Nhất Quang, Diệu Thiện, các sư chú và những người có chức sắc, vai vế lớn trong chùa và giáo hội lại bên giường.
Mọi người đều tề tựu xung quanh đến vài chục người, đoạn sư liếc nhìn bao quát một vòng thấy đã đủ, liền nhắm mắt, ngồi thẳng trên giường nói:
– ban nãy trong cơn mộng mị liền mơ thấy đức phật cùng đại chúng và các Bồ Tát hiện lên trên đám mấy lành, vậy là sắp đến giờ đi, đây thật là ước vọng lớn nhất của đời người xuất gia không có gì cao quý hơn. Nay có đầy đủ ban bệ ở đây, hãy cùng nghe ta nói những lời sau cuối…
Thầy dứt lời thì người trong phòng đều rơm rớm nước mắt, một số người không kịp kìm còn bật lên tiếng khóc than, Nhất Quang phải gạt cho im hết đi, bấy giờ thầy mới thở hắt ra một tiếng.
Mọi người trong phòng đều tâm trạng hồi hộp khẩn trương, không khí thê lương sầu thảm, bên ngoài hành lang, ngoài sân chùa bu đen những phật tử, ai nấy đều hướng về phòng nghỉ của thầy mà lo lắng hồi hộp…
Đoạn thầy vẫy tay gọi Nhất Quang lại sát bên, rồi ân cần căn dặn:
– em con Diệu Thiện có đại thượng căn u ẩn, là người nghìn năm mới tái sinh một, là hòn ngọc quý của đạo hành, là tâm đắc lớn nhất của đời ta, nếu em con sinh vào thời hành pháp, thì hẳn là bậc cao tăng đại đạo, nhưng tiếc thay vào thời mạt pháp này, quân tử ít tiểu nhân nhiều, chính đạo ít thị phi nhiều, hảo tâm ít đố kị nhiều, em con việc đạo thì không ai bằng nhưng việc đời thì ngu ngơ không biết gì, ở trong tăng đoàn còn có điều khó dễ chứ đừng nói bước chân ra ngoài dễ dàng bị hại, nay con làm anh, phải trông coi săn sóc nó sớm tối, nếu có gì sai quấy là có lỗi với ân sư.
Nhất Quang nắm lấy tay thầy vâng dạ gật đầu.
Đoạn thầy lại căn dặn các việc về sau của chùa, từ lớn đến nhỏ, từ việc quốc gia đất nước, giáo hội tông môn, cho tới việc cái cây hoa giấy thầy trồng đằng sau vườn chùa, con mèo hoang thầy đưa về chăm sóc, cụ tỉ cẩn thận, Nhất Quang cứ cúi gật lia lịa, tay nắm chặt tay thầy, nước mắt tràn mi.
Thế rồi thầy lại nói:
– ta biết trong người ta có bảy con thất bộ, ngươi oán hận chúng nó nhưng vì còn ta nên ngươi không dám làm gì, nay ngươi chỉ chờ ta chết đi thì liền bắt gϊếŧ chúng nó chứ gì? Nhưng nếu là trò ngoan thì nghe lời ân sư căn dặn, chúng nó đã giác ngộ đạo, khi ta chết đi rồi chớ làm hại gì chúng, chờ cho đủ thất tuần thì để chúng cùng đi với ta cho có bầu có bạn nhé.
Nhất Quang không nói gì, gạt nước mắt lặng lẽ gật đầu.
Đoạn quay sang Diệu Thiện mà nói:
– con một đời sống giác ngộ vẹn tròn, thuở nhỏ hiếu kính mẹ cha, tôn trọng ân sư, kính nhường huynh trưởng, lớn lên thương yêu các em, bình đẳng chúng sinh, đạo hành tròn đầy thầy không có điều gì chê trách mà dặn thêm, chỉ mong con từ này về sau giữ vững chính đạo, đừng để mê mờ, thì thầy không còn nuối tiếc gì.
Diệu Thiện gật đầu khóc. Đoạn thầy lại dặn dò hết một vòng các sư chú, nói đến tên ai người đó liền quỳ lạy, khóc mà nghe dặn.
Khi dặn dò xong liền nhìn Đại Tuệ hỏi;
– nãy trong cơn mê tôi nghe ông nói tới có người bị mất trí đến chùa ông tu, sau lưng xăm hình con quỷ ngậm dao, cho hỏi hiện giờ người đó ra sao?
Đại Tuệ vội thưa:
– kính thưa huynh trưởng, người ấy trạc tuổi ba mươi, anh ta vừa đến là đòi thọ Bát-Quan-Trai giới, xin cho thiền tu ở gian điện thờ Bồ Tát Địa Tạng.
Sư nghe thế cười ha hả nói:
– tôi đoán chẳng sai, chính Diệu âm nhà tôi đấy, khi xưa tôi có dịp may được ngồi nói chuyện thế gian một lần với huyền ân đạo sĩ, là thầy dạy của Diệu âm, huyền ân mới dạy tôi hay rằng đệ tử núi vu sau lưng ai cũng đều có hình xăm như vậy.
Mọi người trong phòng nghe thế nhốn nháo hết cả lên. Đoạn thầy lại quay sang Diệu Thiện nói:
– xưa kia ta phó thác cho một việc, đã đi xa suốt hai năm qua, chẳng hay đã lo đến đâu rồi?
Diệu Thiện khóc nắm tay mà đáp:
– lời ân sư dạy con nào dám quên, hai năm qua con đi tới khắp các nơi chốn, đường đi chịu nhiều thị phi, lang bạt tận cùng đói rách trải qua đủ cả, cứ mỗi khi đến chùa nào, hễ không có thì thôi, hễ có tượng địa tạng vương Bồ Tát, thì còn liền đảnh lễ mà dán lên lòng bàn chân ngài lá bùa “ tuệ minh biến di vô thượng- âm di mật chú đại Địa Tạng vương bổn nguyện”
Sư hỏi:
– Vậy ở chùa Lôi Tích ngươi có dán bùa không?
Diệu Thiện đáp;
– dạ có.
Đại Tuệ nghe thế liền sực nhớ ra có một lúc khi đang uống trà Diệu Thiện xin đi ra ngoài đảnh lễ…
Sư nghe thế vui lòng lắm, bấy giờ liền cười mà quay sang tất cả mọi người đang quỳ trong phòng mà nói:
– tôi không dám nhận mình tài cao, nhưng cả đời có một món sở trường là phép “Biến di vô thượng giới”, có thể cho hồn xuất khỏi xác ngay khi còn sống, tôi đây sống cả đời tới nay là viên mãn, không ân hận điều gì, chỉ riêng tiếc nuối có đứa trò yêu pháp danh Diệu âm, chắc các ông ở đây đều đã được nghe thấy, nó có thượng căn Bồ Tát địa tạng, do vậy tôi sai Diệu Thiện đi đánh dấu lên các tượng địa tạng trên khắp vùng miền, chính là để chờ tới một ngày được dùng huyền môn lần cuối cùng, liền đi gặp được nó…
Mọi người nghe thế liền cùng thương mà khóc, vậy là những năm tháng cuối đời thầy vẫn đau đáu đi tìm trò không lúc nào quên lãng…
Bấy giờ thầy mới dặn Nhất Quang đi chuẩn bị đàn tràng như thế, như thế…
Nhất Quang rất giỏi việc đạo và đàn tràng, nghe qua liền biết ngay là đàn tử, nhưng cũng không nói gì, chỉ gạt đi nước mắt, liền lặng lẽ đứng dậy đi chuẩn bị đàn cho thầy.
Bấy giờ việc sau đã dặn xong, chợt thầy than đau đầu kêu mệt muốn nằm nghỉ, thế rồi nằm xuống giường rồi im hẳn, chẳng còn nghe được cả tiếng thở…