Lại phải đến tận chiều liền mới hồi tỉnh, các sư lo lắm chẳng hiểu ra làm sao. nhưng lần này tỉnh dậy chẳng còn kêu khóc, liền lẳng lặng đi vào phòng nghỉ, thu xếp hành trang, thẳng bước ra đi.
Minh Hải vội chạy theo gọi hỏi:
– này anh, anh định đi đâu, tang lễ xong có lẽ thầy tôi sẽ về, bố anh cũng về rồi, giờ anh bệnh như thế sao không ở lại mà chạy chữa , liền đó mà muốn bỏ đi đâu? anh cứ vậy mà đi, thầy về không thấy sẽ quở trách tôi.
Đoạn Gấu dừng bước, trỏ tay Minh Hải nghiêm sắc mặt mà nói:
– chớ có đi theo vướng chân ta, khi nào Đại Tuệ về chuyển lại lời ta, cháu Diệu âm gửi lời cảm ơn, nay đã đi rồi.
Nói đoạn bước đi rất gấp.
Sư Minh Hải đứng lặng người…
…Diệu âm…
…tiên sinh Diệu âm sao?…
Đoạn ngơ ngác nhìn theo…người ấy vừa bước ra khỏi chùa, chợt như thấy có muôn ngàn cuồng phong nổi lên xung quanh,tụ lại mờ mờ thành những bóng ma quấn quanh…sư sợ hãi ngơ ngác, không dám bước theo hỏi thêm câu gì, cứ đứng lặng vậy mà nhìn thôi.
…
Bấy giờ Gấu vừa bước ra khỏi cửa chùa, tức thì có hai bóng âm binh từ trên ngọn cây bay xuống, chính là Kỷ Như và Kinh Ma Lạc, nói:
– mừng Tổ trở ra, chúng tôi đợi Tổ quá lâu, đã mòn mỏi cả rồi…, cứ ngỡ người chẳng còn ra nữa, chẳng hay việc điều trị ra sao rồi?
Gấu nói:
– chớ có hỏi nhiều, giờ cho chúng bay tùy quyết, đi theo hay là không?
Hai quỷ giật mình nhìn lại, thấy người ấy nghiêm trang khác thường, không còn ngây ngốc như xưa, đôi mắt long lanh tia nhìn rát sáng, tròng mắt đảo hình âm dương kì bí ảo diệu, chúng liền hiểu ra ngay, đoạn hai quỷ cùng khóc, quỳ phục xuống nói:
– xin nguyện theo cửu Tổ đi đến cùng trời.
Gấu nói:
– vậy đậu vào đây, nhắm hướng bắc mà đi, về chùa thanh trúc.
Đoạn giơ cuốn “Tử ca binh phù lục thuật” lên, hai quỷ liền bay nhập ngay vào hình âm dương trên sách.
Bấy giờ Gấu lại nhìn thấy nơi trong hốc cây có thấp thoáng những bóng ma quỷ, định rảo bước đi lại thì chợt bỗng nhiên có tiếng nói vang lên sau lưng:
– đó là những vong linh ở chùa nghe pháp đã sắp tới lúc được siêu thoát, tiên sinh đừng có bắt dùng mà phải tội.
Gấu quay lại nhìn thì thấy có bức tượng hộ giáo già lam ở phía sau lưng, vậy là hiểu ra, liền bỏ sách vào trong tay nải, đoạn bước qua gốc cây, nhằm thẳng hướng bắc mà đi…
…
Gấu đi mất hơn ba ngày thì tới đất Nam Thuận , liền đi thẳng tới chùa Thanh Trúc.
Đoạn đứng trên đường nhìn xuống, thấy cảnh phố xá thân quen, từng là chốn đi về thuở còn thiếu thời, lòng không khỏi bồi hồi xúc động…
Lại thấy chùa treo ra cờ vàng, cổng chùa có rất đông người đang đứng mà nhìn vào trong nhưng lại không vào, trong lòng buồn rượi. Gấu mới cất bước lại sát cổng chùa.
Khi đi tới gần cổng chùa, chợt thấy có một người con gái rất đẹp, mặc áo trắng, cũng đang đứng nghiêng mình nhìn vào, Gấu liền nhận ra ngay người đó…chính là kinh tâm…
Chợt thấy cuốn sách đang cất trong tay nải rung lên dữ dội, là quỷ bên trong sách đang cảm ứng được kinh tâm đấy sao…
Kinh tâm cũng đã nhìn thấy Gấu…
Cứ vậy người và hồn ma đứng lặng nhìn nhau hồi lâu, rồi kinh tâm mới cất giọng run run mà hỏi:
– có phải…tiên sinh… về thăm thầy đó ư?
Gấu gật đầu, Kinh tâm lại nói:
– tiên sinh về đã trễ , thầy đã mất rồi, xin tiên sinh vào nhanh cho, nay đang làm lễ hạ huyệt…
Gấu lại gật đầu nói;
– tôi đã biết việc đó. Gia quyến tôi thế nào, phu nhân có biết không?
Kinh tâm nói:
– tiên sinh diệu thiện vẫn thường thăm viếng gia quyến tiên sinh nên em vẫn hay đi theo, em gái tiên sinh đã đi lấy chồng xa, còn cha tiên sinh năm ngoái đã mất.
Gấu không nói gì, chỉ liền gạt đám người ra mà sấn bước vào trong chùa, chợt cuốn sách lại rung lên dữ dội, lại nghe có tiếng nói vẳng ra:
– chúng tôi không vào trong được…
Vậy là Gấu không vào nữa, liền đứng từ ngoài mà khẽ nhìn vào…
Nơi gian đất bên trái xây các đền mộ cao, chính là nơi đất để xây mồ cho các Tổ sư và trụ trì của chùa qua các đời…có rất nhiều người đều đang đứng tụ xung quanh một khoảng đất, đa phần đều là sư, có vài người đang lấp đất lại…
Thầy Đại Trí đã yên nghỉ dưới ba tấc đất sâu…
Đoạn nhìn những người đang đứng, thấy có diệu thiện đứng bên tả, nhất quang đứng bên hữu, các sư theo vai vế mà đứng sắp trước sau thành hai hàng…
Gấu bùi ngùi trong lòng, nhớ lại cố hương, thương xót cố nhân, cứ đứng trân trân ở cổng mà ngó vào rất lâu…
…đến khi thầy chết, con cũng chẳng vào được mà thắp nén nhang…chỉ biết đứng từ xa vọng bái…
…diệu thiện bấy giờ đang cúi mặt mà nhìn đám người phu hạ huyệt, chợt bất giác cảm nhận được có một ánh mắt kì lạ tỏa ra một luồng linh lực rất lớn chẳng hiểu ở đâu cứ đang hướng về phía mình, chợt giật mình ngước mặt lên ngó chung quanh, thế rồi ánh mắt dừng lại ở một người đang lấp ló nơi cổng chùa…vừa như thân quen, vừa như lạ lẫm…người ấy cũng đang nhìn diệu thiện, chợt mắt chạm mắt, trong khoảnh khắc không khí như đóng băng bất động, chỉ còn lại có hai ánh mắt nhìn nhau trân trân, người ấy liền khẽ mỉm cười, sau đó lặng lẽ bước đi.
Rồi chợt một niệm khởi lên như tiếng sét đánh bên tai, như tiếng sấm to giữa trời thanh vắng, diệu thiện liền nhận ra ngay người đó, đoạn hét to lên:
– Hạ!
Nói rồi vùng lao chạy ngay ra cửa, các sư đều ngơ ngác nhìn theo…
Khi ra đến cửa thấy phật tử đang đứng đông đen, đoạn quát lớn tản hết họ ra, nhưng không còn thấy người kia đâu nữa, bấy giờ chỉ thấy kinh tâm đang đứng ngay lối cổng tả, liền hỏi:
– có phải là hạ không?
Kinh tâm gật đầu.
Diệu thiện lại hỏi vội:
– đi đàng nào rồi?
Kinh tâm nói:
– tiên sinh đã đi xa rồi…
Diệu thiện ngẩn ngơ nhìn chung quanh tứ bề…tiếng người xung quanh xôn xao kinh ngạc…dưới lòng đường tiếng xe cộ ầm ĩ như không…nhưng chỉ bóng dáng một người, tuyệt nhiên không còn thấy nữa…
Chợt mỗi nỗi thất vọng chán chường trào dâng lên trong tâm trí, cứ đứng vậy rất lâu tới khi các sư ra bên cạnh hỏi có chuyện gì, liền mới buồn bã mà đi vào…
…
Gấu rời khỏi chùa liền đi một mạch về lại làng cũ, đi qua cây cầu đen năm nào thì chợt dừng lại, nhìn xuống dưới dòng sông thẳm…
Cây cầu này là nơi cậu và phương ngày nhỏ vẫn thường qua để tới nhà nhau, cây cầu này đưa cậu đến với huyền môn, dòng sông kia đưa cậu gặp được huyền ân…
Nay cảnh còn đó, mà người đã đi xa mất rồi…
Đoạn lại nhìn vào gốc dừa, vẫn thấy nơi đó có đặt chiếc bàn thờ con, chính là chiếc bàn thờ thầy Đại Trí lập bên sông năm ấy.
Nay vật vẫn còn đây, mà người cũng đã đi xa…
Gấu liền bước nhanh qua cầu, ngăn không cho xúc cảm dâng lên thành nước mắt.
Đoạn đi lại nghĩa địa bên xóm bắc, liền tìm được mộ mẹ rất nhanh, thế rồi quỳ xuống đó nói:
– nay con trai đã về thăm mẹ, nhưng mẹ cũng chẳng còn…
Rồi cứ vậy quỳ ở mộ mà khóc lóc rất lâu…
Mãi lâu sau có con chim cắt bay lại, Kinh Ma Lạc liền thoát ra khỏi sách nhập vào nó, đậu lên trên mộ, Kỷ Như cũng liền ra mà quỳ bên cạnh, hai con cùng nói:
– thôi người mất cũng mất lâu rồi, vì sao Tổ cứ khóc lóc mãi không thôi?…
Gấu đáp;
– bao năm lăn lộn chẳng làm được gì, chết cũng không xong, nay về lại cố hương, người xưa cũng đều xanh cỏ, mẹ mất ta còn thầy huyền ân, thầy mất ta còn thầy Đại Trí, nay Đại Trí lại cũng đi rồi, chỉ còn lại mình ta thân cô giữa trời, không nhà để về, chẳng nơi đi để đi, ta xót thương cho thân ta, xót cho kiếp U ẩn tệ bạc mà ta khóc đó thôi…
Kỷ Như nói:
– còn…còn…Diệu Thiện…tiên…tiên…sinh mà?
Chim nói thêm vào;
– vẫn còn cả Nhất Quang đại đức, đều là anh em của Tổ.
Gấu đáp:
– Diệu Thiện là Kinh tâm, kinh tâm cũng là Diệu Thiện, hai người như một, một xác hai hồn. Tuy ta với Diệu Thiện tình như thủ túc, nhưng nhìn Kinh Tâm là ta lại khó chịu trong lòng, kẻ thù truyền đời, ta làm sao mà sống chung dưới mái nhà? Còn anh Nhất Quang ta sống ở trong chùa, ta còn phải nuôi các ngươi, đâu có vào được, hơn nữa anh ấy thống lĩnh tăng đoàn, nay dung chứa kẻ như ta, lại sinh điều tiếng cho anh ta, khiến anh khó xử, vả chăng các ngươi thề chết không bỏ ta, có lòng nào ta nỡ bỏ các ngươi cho đành?
Hai quỷ nghe thế, biết Tổ hằng thương cho chúng, liền bùi ngùi mà khóc, đoạn Kinh Ma Lạc nói:
– ở đây đã chẳng còn ai, vậy hãy mau về nhà ta thôi, Tổ vẫn còn chúng tôi đây, ở Phúc An Tổ còn có cha và em gái.
Kỷ Như nói thêm:
– còn…còn…cả nữ…nữ…Bồ Tát…
Gấu đáp:
– các ông nói chính hợp ý ta, ta vẫn còn có chốn đi về, trên đời thật chẳng gì hơn là có một mái nhà.
Rồi Kinh Ma Lạc lại hỏi;
– vậy giờ đây con đường tương lại của Tổ tính ra sao? Tổ đã có nghĩ đến chưa?
Gấu đáp:
– tôi đều đã nghĩ thông cả rồi, các ông nghe tôi nói đây. Tôi hằng quán tưởng thấy Bồ Tát Địa Tạng, người dạy cho tôi môn tu Bát-Quan-Trai giới, trong khi tôi là người có thể tu được hàng Bồ Tát đạo, cao hơn Bát-Quan-Trai giới, vì sao lại vậy? Vì một lẽ rằng Bát-Quan-Trai giới là phép tu của hàng phật tử tại gia, tức là Bồ Tát đã ngầm ám thị cho tôi rằng nghiệp lực tôi sâu dày như vậy, không thể xuất gia vào chùa, chỉ có thể là hàng phật tử tại gia, còn như Bồ Tát lại nói, mắt lửa tôi đã bỏ rồi, tôi dù cố dụng công thế nào nó đều không quay lại nữa, đó chính là do năm năm qua hành đạo mang lại phước lành, dập tắt được ngọn lửa sân, mát lửa mất đi điều đó có nghĩa rằng trời đã thương cho thân tôi chịu quá nhiều đau khổ, đã muốn cho tôi đến lúc được hưởng an nhàn, vậy căn U ẩn của tôi đã khép lại, từ này trở về sau sẽ có thể làm người tu căn lành. Chuyến này về nhà, tôi xin ông già hỏi cưới em liễu cho tôi, là người tôi hằng đem lòng thương, rồi cứ vậy sống tới khi đầu bạc, không còn phải chịu đựng lời nguyền U ẩn…
Các quỷ nghe thế đều vui mừng cho Tổ…
———————-