Phúc về rồi liền đi thẳng tới đền tử hậu dò hỏi, quả nhiên ông già trông đền nói trong đền có sách như thế, vậy là Phúc xin thỉnh mượn về xem, ông già thấy Phúc trình bày rõ thân thế, gốc gác lịch sử, lại thấy nêu được đúng nhiếp pháp, nguồn gốc các tổ và gốc sách, lại dịch được sách, nên cũng tin tưởng, liền ưng cho mang sách đi.
Từ hôm đó về nhà ngày ngày đóng cửa đọc sách, do có trí tuệ, lại có căn cơ, liền đọc thông hiểu sách ấy rất nhanh, duy chỉ có phép “Lục túc thiền minh” cần có căn cơ phật gia mới học được, nên không học, còn lại những thuật khác trong sách đều am hiểu cặn kẽ, vận dụng linh hoạt, từ đó Phúc liền phát hiện ra bí mật lớn trong sách, đó chính là phép “ Trùng thân ấn quỷ tận”, dùng phép này có thể làm cho người chết sống lại, người nát phách cũng có thể trở lại ( công năng của phép này mạnh như phép Địa âm tạng mật chú- một trong các thần chú Lục túc thiền minh của Bồ Tát Địa Tạng).
Vậy là Phúc lại bắt tay nghiên cứu kĩ hơn, mất một thời gian dài thì mới am hiểu thành thục các yếu tố để thực hiện được thuật…
Cụ thể, để thực hiện trùng thân thuật buộc phải hội đủ các yếu tố sau:
– thứ nhất, hồn người đã chết.
– thứ hai, vật chủ làm nơi gửi hồn.
– thứ ba, người biết niệm chú dẫn, là người có căn cơ u ẩn và thành thạo công năng niệm chú, kết ấn.
– thứ tư, cuối cùng, cũng là quan trọng nhất là vật dẫn xuất.
Nếu đủ bốn yếu tố trên thì mới có thể thi hành chú thuật.
Bấy giờ Phúc mới xem xét lại mọi mặt, liền thấy đã có ba yếu tố hồi sinh lại được Vu thần.
– thứ nhất, đối với hồn người chết, thì mỗi đệ tử chính tông của Vu sơn đều được xăm lên mình hình của Vu thần và gửi bản phách của thần vào đấy để nuôi dưỡng linh lực, nội lực và có âm lực nuôi âm binh. Phúc là đệ tử chính tông nên đã có hình xăm ấy, vậy là việc này coi như xong.
– thứ hai, đối với vật chủ làm nơi gửi hồn, thường là xác người, nhưng đối với Vu thần thì không thể nhập vào xác người bình thường, chỉ có thể dùng một trong các món pháp bảo truyền đời của núi Vu, nay có nhiều món lúc loạn lạc đã mất tích hoặc được các quỷ có trọng trách mang đi giấu ở đâu bảo vệ không biết, nhưng hiện tại Phúc biết và từng trông thấy thì có ba món, thứ nhất là bài vị Vu thần, gọi là nhất cửu đỉnh bảo, đã bị vỡ nát không dùng lại được, thứ hai là dao Vu, gọi là cửu cửu đỉnh bảo, cũng đã bị thất lạc theo cửu tổ, thứ ba, là sách binh phù lục thuật, gọi là tứ cửu đỉnhh bảo, nay đang ở đây, có thể dùng làm vật chủ, vậy là việc này cũng coi như xong.
– thứ ba, cần người huyền nhân duy trì nghi lễ, chính là Phúc , đương nhiên việc này cũng xong.
Vậy là mọi mặt đều đã chuẩn bị kĩ lưỡng, chỉ còn một yếu tố cuối cùng còn thiếu, đó chính là vật dẫn xuất, vật dẫn xuất được cho thuật phải là vật có linh lực to lớn, hoặc là thần chú, hoặc là quỷ thần…thuật này yêu cầu phải học được phép lục túc thiền minh để dùng làm dẫn xuất, mà muốn học được phép thiền minh, lại phải có căn cơ phật gia, đây là căn cơ mà sơ tổ, tứ tổ có nhưng Phúc lại không có…
Thế rồi lại vò đầu bứt tai ngày đêm nghiên cứu theo hướng khác, sau cùng lại phát hiện ra một điều…nếu không biết dùng lục túc thiền minh vẫn có thể dùng thứ khác làm vật dẫn xuất, nhưng vòng vèo hơn, mất công hơn, đó chính là thay thế phép lục túc thiền minh bằng một loại linh lực khác có sức mạnh to lớn, còn được gọi là: Tà linh.
Rồi cảm thấy không còn con đường nào , vậy là Phúc bắt tay nghiên cứu theo hướng sử dụng Tà linh làm vật dẫn xuất…
Ngặt thay thuật Tà linh là thuật cấm sử dụng trên núi Vu, nên không biết luyện, giờ muốn luyện nuôi được phải trải qua thời gian trường kì nhiều năm, hoặc vẫn có một cách khác là tìm người thầy pháp huyền nhân nào thuộc phái nuôi Tà linh, mà lại phải có âm lực mạnh mẽ nuôi dưỡng được Tà linh đủ mạnh, rồi nhờ người ấy thỉnh Tà linh ra để dùng…
Thế là Phúc ngày đêm suy nghĩ, đau đáu trong lòng khôn nguôi không biết sao cho phải, chẳng biết cách nuôi luyện Tà linh như thế nào, và tốn phải mấy chục năm thì liệu khi ấy có còn sống mà thi hành thuật hay không? Phúc đem việc này hỏi đỉnh nhưng đỉnh cũng như Phúc, chẳng biết gì về thuật đó…
Việc môn vẫn đau đáu trong lòng chưa biết tính sao thì một hôm ông Thức gọi Phúc ra gặp riêng nói chuyện, đoạn nói:
– cậu có việc riêng kín đáo tôi cũng mới dò biết được, cậu chẳng phải người thường mà đang lén che giấu thực hiện tà thuật phải không?
Phúc nghe thế biết là bí mật việc nuôi âm binh đã lộ thì cả sợ giật mình, nhưng ông Thức vội trấn an ngay:
– cậu chớ sợ, tôi xem cậu như người trong nhà, như con trai tôi, cậu cũng chẳng hại gì đến tôi cả, tiền đồ của cậu lại là tôi gây dựng nên cho thì tôi chẳng bóc mẽ cậu ra hãm hại làm gì, nay tôi tin tưởng lắm thì mới mang việc riêng ra nói, nếu được cậu giúp sức thì may ra việc thành…
Hóa ra trùng hợp làm sao ông Thức ngày trẻ từng là người huyền nhân, theo học thuật nuôi luyện Tà linh và ngải chú, từ ngày có âm binh theo Phúc về, người đi đâu âm binh liền cùng đi theo đó, dù chúng đều có thuật ẩn phách nhưng ông Thức cũng là một người huyền nhân đã luyện nuôi Tà linh mấy chục năm trời, qua thời gian lâu dài theo dõi và nhiều lần làm phép thử liền nhận biết ra được, lại ngấm ngầm theo dõi thêm thời gian thì khẳng định chắc chắn người này kín tiếng, được việc, một hôm mới lấy can đảm bộc bạch với Phúc chuyện riêng tư, hóa ra từ ngày vợ chết, ông ta liền sai Tà linh dò theo những đồ vật để ở nhà, rồi làm lễ cúng bái gọi hồn, sau đó bắt hồn giam vào trong bài vị, để đôi khi nhớ nhung thương cảm thì sẽ tới mà trò chuyện riêng, đồng thời cũng cứ lưu giữ hồn ở đó mà chờ thời. Sau này biết được Phúc là huyền nhân, liền mới mạnh dạn trò chuyện, hy vọng làm sao cậu ta biết được bí thuật gì mong cho bà ta sống lại…
Phúc bấy giờ nghe ông Thức nói thế thì như mở cờ trong bụng, đoạn nói:
– giáo sư hóa ra cũng là người huyền nhân, vậy chúng ta cùng là người trong nghề với nhau chẳng phải nghi ngờ gì nữa, nay giáo sư nuôi Tà linh đã lâu hẳn biết trong giới Tà linh có những con có thể nuôi luyện ra nhằm làm thuật nhập hồn chứ?
Ông Thức nói:
– tôi có biết giống đó, tên gọi loài đó là Thủ Thiêm, có khả năng bắt giữ hồn, tuy nhiên để dùng được giống đó phải có chú dẫn hồi sinh, thế nhưng thần chú dẫn hồi sinh dùng cho loại này đã thất truyền trong giới nuôi Tà linh từ lâu, do vậy luyện con Thủ Thiêm ra cũng không dùng được, đành phải bó tay chịu thua. Tôi nay còn giữ hồn vợ tôi lại là vẫn mong một ngày có cơ may nào đó tìm lại được chú bị thất truyền ấy, hoặc là tìm được người biết làm thuật ấy thì nhờ vả, nay mới hay cậu cũng là người huyền nhân, lại là tâm Phúc của tôi, là người tôi hằng tin tưởng nên mới mạnh dạn bộc lộ chuyện riêng, ý cậu thế nào?
Phúc cười Vui sướng nói:
– vừa hay giáo sư có thứ tôi thiếu, tôi lại có thứ ông cần, nếu tôi có loại thần chú tương ứng với chú dẫn hồi sinh ấy thì sao? ông có bằng lòng luyện ra con Thủ Thiêm ấy, rồi ông dùng cho việc ông, tôi dùng cho việc tôi?
…hai vị bác sĩ nhìn nhau rồi cùng mỉm cười…
Vậy là từ đó, cả hai đều tập trung vào việc rèn giũa đạo thuật, đồng thời cũng bắt đầu việc nuôi luyện Tà linh…
Các quỷ biết được thì liền khuyên can Phúc, Ma-na-tịch nói;
– Huyền Y tiên sinh có biết rằng Tà linh có mười loài thì hết chín loài nuôi bằng máu sống? huống chi những loài cực độc dùng cho các phép cấm thuật giống loài Thủ Thiêm? Một khi nuôi dưỡng nó, chắc chắn tay phải vấy máu tanh, rồi thì sẽ phạm vào đại nguyện, khi đó biết tính ra sao? đại nguyện của người u ẩn cũng chính là lời nguyền u ẩn, một nguyện phát ra đất trời đều cảm thấu, làm sao có thể thay đổi được?
Phúc nói:
– Tiền bạc danh vọng tôi chú trọng kiếm ra cũng chỉ là để sau này gia đình vợ con có cuộc sống đảm bảo, chứ chúng nó chỉ là vật ngoài thân, có nghĩa lý gì? Thế mà giờ đây tôi đã bước lại con đường u ẩn, không thể yêu thương Liễu được nữa rồi, vậy đối với tôi như thế là hết, chẳng còn gì để mất, nay tôi chỉ biết dốc toàn tâm toàn sức mà lo cho đại đạo núi Vu, dù có phải trả giá thế nào cũng cam, đại nguyện không thể thay đổi, vậy chỉ có cách chấp nhận nó, sau này khi chết đi nếu không còn toàn thây, chỉ mong chúng quỷ tưởng nhớ mà thắp cho nén hương là đủ. Chờ sau này việc lớn thành rồi tôi mới nói với anh đỉnh tôi, mời anh ấy về làm thập tổ, còn thân tôi nổi trôi ra sao cũng được…
Các quỷ nghe thế đều khóc, con nào con nấy cảm thán muôn lần trước sự hy sinh của Phúc, không dám cản nữa…
Kể từ hôm đó, nói là làm, Phúc trở nên xa cách lạnh nhạt với Liễu, anh vẫn cứ ân cần nấp ở phía sau, quan tâm âm thầm lặng lẽ tới cô, cô có vấn đề gì cũng liền im lặng mà bảo vệ, nhưng tuyệt nhiên chẳng còn nói chuyện gần gũi nữa.
Cũng kể từ hôm đó, ông Thức đã bắt đầu có động lực, có mục tiêu, nên lại lao vào làm việc, ông cũng xác định sớm muộn gì cũng dùng Liễu làm vật chủ xác, do vậy cũng chẳng còn mặn mà tha thiết gì tới con gái, thậm chí còn có ý tránh đi, vì sợ thân gần với con gái thì tới khi ra tay lại nặng tình không đành, do vậy tình cảm cha con trở nên lạnh nhạt hững hờ.
Liễu cũng nhận ra điều đó, lại thấy Phúc lạnh lùng trốn tránh, thì cho là do Phúc xúi bẩy cha con xa cách, hòng để chiếm đoạt tài sản, do vậy càng ngày càng ghét Phúc hơn, tới mức cứ thấy mặt là tránh, không hề hay biết anh vẫn luôn âm thầm theo dõi bảo vệ cô suốt cả thời từ đi học cho tới khi đi làm…
———————-