Với người dân trong làng , nếu kẻ nào đến mua chịu lão Toàn vẫn gật đầu đồng ý rồi đợi đến mùa sẽ đến khấu trừ thóc gạo vào sau . Chả thế mà sau mấy năm lão đã có gia sản là một căn nhà mái ngói, cột kèo gỗ lim , lại có thêm cây khế bên chái nhà và cái giếng nước trong vắt quanh năm xâm xấp nước hệt như một gia đình quyền thế thời xưa .
Buổi trưa hôm ấy , cũng tầm chính ngọ khi mặt trời đã lên thẳng đỉnh đầu làm không khí làng Bến Hoà trở nên nóng nực và có chiều ngột ngạt lắm .Lão Toàn phanh cái áo mỏng rồi làu bàu câu gì đó trong cổ họng , đoạn với lấy cái quạt mo rồi bực dọc tiến ra chiếc ghế đá kê dưới cây khế , cạnh cái giếng nước bên chái nhà rồi ngồi phịch xuống . Lão Toàn có một thú vui không bỏ được đó là dù trời có nóng đến mấy , lão cũng uống nước trà nóng . Mà phải là loại trà mạn sen ở tận vùng Hà Giang , và phải được ủ bằng thứ nước đun sôi lấy lên từ cái giếng cạnh nhà .
Lão bảo cái giếng đó nước ngon ngọt lắm , nên có ủ cỡ nào thì màu nước trong ấm trà mạn sen cũng vẫn tươi xanh , tuyệt không ngả màu vàng và để lại váng . Lão Toàn bỏ chiếc quạt mo lên mặt bàn rồi rót ra một bát nước trà Mạn Sen bốc khói nghi ngút . Đoạn đưa cái điếu đã được châm loại thuốc lào đen lên miệng và châm que đóm . Lão rít một tràng long sòng sọc rồi khẽ ngả người phà ra một đám khói trắng bay nhờ nhợ trước mặt .
Với tay lấy bát nước trà nóng màu xanh vàng đang sóng sánh, lão nhấp môi rồi khẽ ” khà” một tiếng tỏ vẻ khoan khoái lắm . Đang lim dim tận hưởng cái thú vui quen thuộc hàng ngày thì ba tiếng sủa của con Mực ở đầu cổng làm lão bỏ luôn cái bàn nước trà đang cầm trên tay xuống bàn rồi ngửa mặt nhìn ra ngoài cổng.
Lại nói về con chó Mực lão Toàn nuôi hơn ba năm nay , nó là giống chó của dân bản tít trên mạn Hà Giang , lão mua được khi một lần đi trẩy hội đầu năm ở trên vùng tây bắc , khỏi phải nói nó là một con chó có tướng rất đẹp. Con Muệc có một màu lông đen tuyền , không một gợn lông trắng, nhưng lão Kha ưng nhất và cũng nổi bật nhất trên cơ thể nó chính là đôi mắt màu xanh thăm thẳm .
Cũng vì đôi mắt này mà trong màn đêm, nhiều người dễ bị hoảng sợ khi nhìn thấy bóng dáng của nó. Con Mực thường ngày quấn lão lắm , lão đi đâu nó cũng lẽo đẽo theo. Lão Toàn cưng con Mực lắm , lão cưng nó còn hơn cả con người ở trong nhà . Con mực cũng hiểu ý lão nên lúc nào cũng quẩn quanh khi lão Toàn ở nhà.
Lão Toàn nhìn ra cổng rồi gọi giật giọng :
– Đứa nào ? Đứa nào ở ngoài đấy đấy ?
Goij mấy lần mà không có tiếng trả lời , trong khi tiếng gầm gừ của con Mực mỗi lúc một lớn dần trong cổ họng làm lão Toàn bực mình chửi đổng :
– Tiên sư đứa nào cứ thập thò ngoài đấy mà không vào thế ? Ông lại thả chó cho cắn chết cha mày giờ !
Nói rồi lão Toàn đứng hẳn dậy bước ra cổng , quát con Mực rồi mở cánh cổng gỗ nặng nề . Bản lề lâu ngày hoen gỉ phát ra những trành thanh âm kèn kẹt đến chói óc . Đập vào mắt lão Toàn là một người đàn bà còn khá trẻ , mặc áo nâu sồng , đi chân trần , người lấm lem bùn đất và tóc xoã ra che kín cả khuôn mặt . Cái bụng của người đó trương phình lên to tướng hệt như úp cái thúng đựng thóc ở bên trong vậy .
Toàn thân người đàn bà đó phát ra một luồng khí lạnh ,xộc vào người lão làm lão lùi lại mấy giây . Sau khi định thần , lão Toàn lắp bắp hỏi :
– Bà … bà tìm ai ? Tôi … tôi là Toàn … Việt Toàn … chủ căn nhà này !
Lão Toàn há hốc mồm kinh ngạc khi chứng kiến cảnh tượng trước mặt . Người đàn bà cơ thể gầy đét với cái bụng to tướng hệt như ngạ quỷ trong mấy bức tranh vẽ ở tường đình làng đang quỳ sụp xuống , lạy lão như tế sao . Từ cổ họng phát ra tràng thanh âm như vọng về từ chốn nào xa xăm , u mình lắm :
– Con trăm lạy ông … con ngàn lạy ông … con xin ông thương tình tha mạng .
Lão Toàn kinh hãi á khẩu , định thần mấy giây mới lắp bắp hỏi lại :
– Bà … bà làm gì vậy ? Sao lại nhè nhà tôi mà quỳ lạy ?
Người đàn bà vẫn vái lấy vái lể , nước mắt lưng tròng mà rằng :
– Con lạy ông , con có một chuyện muốn xin ông đồng ý . Ngày mai ông sẽ mua được một con heo nái, trên đỉnh đầu nó có một nhúm lông màu đen . Nó là con heo đang có chửa . Xin ông thương tình đừng chọc tiết , cho nó được sinh con rồi tuỳ ông định liệu . Xin ông tha mạng … xin ông tha mạng !!!
Người đàn bà nói rồi đứng lên vái tạ thêm mấy nhịp rồi lầm lũi tiến ra ngoài đường làng và biến mất dạng sau gốc Đa cổ thụ ngay đầu làng .
Lão Toàn kinh hãi kêu thét lên rồi ngồi bật dậy , định thần nhìn quay quắt thì hoá ra chỉ là một giấc mơ . Không biết lão đã thiếp đi ở cái bàn đá này từ bao giờ và cơn ác mộng đó thật đến nỗi toàn thân lão vẫn rùng mình ớn lạnh dù tiết trời cuối tháng sáu , đầu tháng bảy đang nóng hầm hầm như lửa đốt .
Lão Toàn lau vội đám mồ hôi đang túa ra trên mặt rồi định thần nhìn ra cổng , con Mực vẫn nằm im lìm trong cái chuồng gạch phì phò thở . Lão chau mày suy nghĩ hồi lâu rồi tặc lưỡi đáp :
– Mẹ nó ! Chắc mình tưởng tượng ra thôi !
Đang miên man suy nghĩ thì ngoài cổng có tiếng gọi giật giọng của lão Dung hàng xóm kéo lão Toàn trở lại hiện thực :
– Chào bác Toàn ! Làm gì mà ngồi đần người ra thế ?
Lão Toàn với lấy cái điếu cày rồi đưa lên miệng rít một tràng , đọan quay ra bảo :
– Bác Dung đó à ? Vào ! Vào đây uống nước với tôi !
Lão Dung ngồi phịch xuống ghế , đón lấy bát nước chè Mạn San mà lão Toàn mới rót ra , đưa lên miệng nhấp một ngụm rồi cảm thán thốt lên :
– Nắng ! Nắng quá bác Toàn nhỉ !
Lão Toàn gật đầu rồi đáp :
– Vâng ! Nắng quá bác ạ !
Lại nói thêm về lão Dung , năm nay lão cũng trạc tuổi lão Toàn , tức là gần năm mươi tuổi , thân hình gầy gò với khuôn mặt hốc hác và hai hốc mắt trũng sâu lúc nào cũng ánh lên cái nhìn liên láo .
Lão Dung vốn là trẻ mồ côi . Ở cái làng Bến Hoà này ai ai cũng biết ,lão chăn vịt trong một đêm mưa gió tối trời đi soi ếch bắt gặp Dung được quấn trong một chiếc chiếu mỏng đặt ngay ngã ba . Đúng hơn là gã bị vùi lấp sơ sài cho có lệ , người ta đồn nhau rằng gã là con rơi của ai đó hoặc là mẹ Dung chửa hoang rồi giấu nhẹm việc đó , sau khi sinh hạ bèn cuốn chiếu rồi đem chôn .
Dung sống với lão chăn vịt tới năm mười lăm tuổi thì lão chăn vịt chết . Tứ cố vô thân Dung xin ở đợ cho lão chánh tổng Cần , công việc của Dung là chăn trâu , chẻ củi , vác đá . Nói chung là việc nặng nhọc gì Dung cũng làm đổi lại là cơm ăn ba bữa , một năm sáu quan tiền .
Nhưng có lẽ chán ghét việc bị đòn roi vô cớ của nhà chánh tổng Cần nên Dung đã thôi không thèm ở đợ mà quay sang làm nghề bắt ếch đêm đắp đổi miếng ăn qua ngày . Ngoài việc bắt ếch và mò cua bắt ốc thì Dung có một cái tài lẻ là mở được tất cả các ổ khoá trong làng . Dù là loại khoá có khó đến đâu thì chỉ chưa đầy nửa cây nhang gã đã mở thành công .