22.
Nói đoạn thấy sóng nước dập dềnh, một con rồng xanh bay vút lên không trung, uốn mình rít lên một hơi dài căm tức, rồi nhìn lại xem ai đã gây họa diệt tộc, làm kinh động cả chốn nương thân.
Nhưng than ôi, nhác thấy bóng đại bàng, chính là thiên địch*, lại thấy nữ quỷ đang ngồi trên lưng đại bàng, rồng kinh hãi rụng rời, oai khí thần linh tan đâu mất cả, chẳng nói chẳng rằng uốn mình định chui lại xuống lòng sông…
(*Thiên địch: kẻ khắc mạng trong tự nhiên. Rồng là thức ăn khoái khẩu của loài Ca-lâu-la, bình thường mỗi Ca-lâu-la trưởng thành có thể ăn năm trăm rồng nhỏ, hơn mười rồng trưởng thành, về sau loài rồng sợ tuyệt diệt nên báo với Như Lai mới phân giải được, nên trước khi ăn chay các sư thường có nghi lễ cúng đại bàng là để nó ăn no rồi thì không ăn rồng nữa.)
Thế nhưng Ca-lâu-la đã thấy bóng nó, vậy là uốn mình một cái, vỗ cánh rầm rập, cuồng phong nổi lên điên cuồng, đoạn sà lại mà cắp lấy thân rồng. Rồng hoảng hồn phun ra ngụm nước lớn nhưng đại bàng lại đã thả lửa thần ra, nước kia chạm vào lửa thần liền nóng quá mà bay hơi hết, tạo thành một tầng mây mù giăng kín cả trời.
Phá xong nước đó, đại bàng Ca-lâu-la lại lao vào tiếp, rồi chỉ một chiêu, hai vuốt sắc đã quắp ngang thân rồng tha lên một khoảng không cao mà ném xuống trở lại, rồi uốn lượn xuống ngang nó, đoạn hít lấy một hơi dài mà phun ra một dòng lửa lớn kinh hoàng, lửa đó nuốt trọn lấy thân thần rồng, nó rên lên quằn quại đau đớn, rồi thân thể bốc cháy phừng phừng, lại lao đầu xuống dòng nước nhưng cứ hễ gần chạm vào mặt nước lại bị Ca-lâu-la bay lại cắp lên cao rồi lại thả xuống cho chết cháy, cứ thế đến vài bận thì xác rồng cháy ra tro tan cả ra thành muôn ngàn rắn nhỏ trùng độc rơi lả tả xuống sông, nhưng đại bàng cũng chẳng tha cho như thế liền đập cánh liên hồi mà nổi cuồng phong, cuồng phong ào đến thế các xác rắn trùng giòi bọ đang rớt xuống sông kia lập tức theo gió mà tan hết, hồn phách chẳng biết về nơi đâu. Cảnh vật thảm thiết thê lương, các vong ma còn sót lại thấy Tổ chết như thế đều đồng thanh gào lên đau đớn, con nào vừa gào lên liền bị đại bàng thiêu rụi ngay, chúng nó giẫm đạp nhau mà chạy nhưng không một con nào thoát khỏi ngọn lửa thần, tất cả đều hồn tan phách tán, cả thảy có đến nghìn con cùng chết một lúc, oán khí từ bọn ma da chết rồi tụ lên thành mây đen, cứ tụ lên đến đâu, đại bàng lại tung cánh gọi cuồng phong thổi tan đi hết.
Thật là,
Thủy vốn sinh khắc hỏa
Nhưng nào phải lửa thường
Lại thêm cuồng phong lạ
Hồn phách lạc muôn phương.
Chỉ trong một khắc con sông Hạc lâu nay hễ về đêm là thấy đen kịt, giờ đây đã trong hơn như thể ban ngày, các bụi cây lau sậy nơi trú ngụ cho rắn rết trùng độc hai bên sông phần nhiều đều đang dẫn lửa rực sáng, cảnh vật đã quang đãng ra chẳng còn âm u, nhưng chỉ hiềm một điều ngọn lửa bên bờ sông lan ngày càng rộng, dần thành đám cháy to.
Đại bàng giết được thần sông rồi vẫn chưa thôi, thích chí lại bay vút đi một khúc sông khác cách dó không xa, cứ bay đến đâu là phun lửa thiêu rụi đến đó, thoáng chốc cả mấy khúc sông đều bốc lửa phừng phừng cháy rực trời, đoạn bay tới khúc sông nọ cách cầu cỡ bốn mươi mét, thấy bỗng trong lùm cây phát ra ánh sáng chói đỏ rực rỡ rồi từ lùm cây bay lên một thần tướng mặt đỏ phừng phừng, thân mặc giáp tay cầm thanh long đao lớn, cưỡi lên trên con ngựa trắng, nguyên là thần binh núi Vu được Huyền n nuôi để bảo vệ giữ gìn cho sông, tên gọi Hoàng Liêu, thấy sông có động nên theo lệnh mà lên xem việc, thần có Thiên nhãn thông, nhìn quán sát thấy trên lưng Ca-lâu-la có bóng một nữ nhân mặc đồ trắng đang cưỡi nó, tay nữ nhân ấy cầm sợi xích trói cổ đại bàng Ca-lâu-la, liền đoán biết nó chính là nguồn cơn thao túng, thần nổi lửa giận bay vút lên không, đọan múa tít thanh đao mà lao đến…
Đại bàng phóng ra ngụm lửa lớn về phía thần nhưng từ đao phóng hào quang ra, lửa đó liền tan mất, nữ quỷ ngồi trên đại bàng thấy vậy liền rút cung, lắp tên nhắm bắn một phát, trúng ngay đao của thần, đao đó chạm vào mũi tên liền tan ngay lập tức, vậy là không có gì đỡ, lửa từ đại bàng phun ra đốt thần cháy phừng phừng, cả người cả ngựa bốc hỏa lao xuống mặt sông, nhưng đại bàng không thôi, lại đập cánh thật mạnh, cuồng phong nổi lên ào ào, hồn vía thần tan đi tứ tán, lá bùa đỏ và thanh kiếm đào cắm lên đều bốc cháy rừng rực.
Thật là,
Sí điểu nổi lửa sầu
Ngọc đá nát như nhau
Thần chịu như ma quỷ
Phách lạc về nơi đâu?
Đoạn giết thần xong, quỷ nữ mới ngẫm nghĩ…
Thân Phương rõ ràng có pháp khí, Dạ xoa và rắn Ma-hầu-la-già đến gần thân nó đều bị thứ ánh sáng từ ngực nó thiêu đốt, nhưng đại bàng này chẳng lại gần nó mà đánh từ xa, liệu có được chăng?
Nghĩ đoạn giật mạnh xích, đại bàng nhận được hiệu lệnh, quay ngược trở lại bay thẳng về hướng cầu nơi Phương đứng.
Lại nói lúc này Phương còn đang gục đầu mà khóc thương chị Hương đã tan đi, thì chợt cảm nhận được luồng sát khí cực mạnh bay thẳng tới thân, Phương giật mình kinh hãi ngước lên, thấy đại bàng đang bay lại, đoạn nó căng ngực phù mỏ lấy hơi, rồi thổi ra một hơi lửa cực dài cực mạnh, sợ là chưa đủ, nó còn đập cánh ào ào để tiếp thêm gió vào lửa, lửa đó mạnh như vũ bão, nhằm thẳng Phương mà lao…
…nhưng khi ngọn lửa lao đến gần Phương thì đột nhiên một ánh chớp lòe nơi ngực Phương xuất hiện, rồi ánh chớp đó nhằm hướng lửa ấy mà phóng ra, lao ra không trung hóa thành quầng lửa lớn dội thẳng vào quầng lửa của đại bàng… hai lửa chạm nhau long trời lở đất, rồi dần dần lửa kia đẩy ngược lửa của đại bàng trở lại nhanh chóng đã bén sát tới thân, đại bàng thấy nguy hiểm thì bay vút lên không mà tránh nhưng nào còn kịp nữa, ngọn lửa kia đã liếm vào thân vào cánh, đại bàng bốc cháy rừng rực rồi phút chốc tan đi chẳng còn thấy đâu nữa, nữ quỷ thấy nguy cũng vội vứt cả xích mà tan đi, để mặc đại bàng bị thiêu rụi.
Thật là,
Lửa quỷ thần tuy mạnh
Chẳng thắng lửa Phật bà
Quan âm cho pháp bảo
Mệnh trừng phạt yêu ma.
Lúc này mạch sông vắng tanh, không gió cũng chẳng sóng, bóng sông trong hơn, chỉ còn hai bên bờ sông lau sậy có những lửa nhỏ cháy âm ỉ râm ran, những con vong ma ngạ quỷ căn cơ lâu bền dưới sông này vẫn đang cháy lên ngùn ngụt mà than trời kêu đất trước ngọn lửa của kim sí điểu…
Phương ngồi bệt cả xuống đất kinh hoàng, vạch áo ngực ra xem thấy năm câu thần chú Bồ tát Quan m cho dạo nọ, nay chỉ còn hai chấm đang sáng vàng rực rỡ, ba chấm kia đã đen như than, rồi chúng rất nhanh đều lặn mất, trở về là da thịt bình thường, vậy là để giết được rắn xanh, Dạ xoa và Ca-lâu-la đã tan mất ba câu thần chú, liệu con nữ quỷ kia còn bao nhiêu thuộc hạ nữa đây?
Phương hồ nghi lo lắng không yên, chợt nghe từ xa tiếng người ầm ĩ, thì ra là người dân bên xóm Bắc đang chạy tới mà cứu hỏa, lúc này nhìn lại, hai bên bờ sông lửa cháy ngút trời, vong ma ngạ quỷ kêu gào đau đớn nhiều không kể xiết, vang vọng cả đất trời, Phương nhìn bọn chúng quằn quại như thế mà lòng cũng thầm bùi ngùi thương cảm…
…
Lại nói, hai giờ sáng, Thầy Đại Trí, thầy Nhất Nguyên và các thầy của chùa đều đã tụ tập ở nhà Hạ đông đủ, tất cả theo bố trí của Đại Trí mà thiết lập trận đồ đã xong xuôi, trận đồ tên gọi “A-la-hán toái”, bố trí gồm có mười sáu sư bố trí thành hai vòng, vòng thứ nhất bên trong, gồm có tám sư ngồi xếp bằng quanh một đàn tràng, cách sắp xếp đàn đó gồm ba bàn đều dài hai mét, cao một mét, bàn ở giữa lớn hơn rộng hai mét, hai bàn nhỏ hai bên rộng một mét hai mươi phân, trên ba bàn đều bày bàn thờ Quan âm Bồ tát, hương nhang đầy đủ, hoa quả ngũ cốc, cháo gạo, muối mỗi thứ một bát, đèn dầu nến, giấy vàng, hoa cúc vàng. Rồi trên mỗi bàn lại có cắm một đạo bùa, bùa đó giống với bùa đặt trên lưng tám sư, tay mỗi sư lại cầm một tràng hạt, cứ thế ngồi niệm câu chú A-la-hán thầy ban cho. Vòng thứ hai bên ngoài, cũng gồm tám sư, ngồi xếp thành hình bát giác tám cạnh ứng với tám hướng Đông, Đông Nam, Nam, Tây Nam, Tây, Tây Bắc, Bắc, Đông Bắc. Mỗi sư lại cũng lại ngồi như thế, đeo bùa, cầm tràng hạt và niệm chú, cứ vậy tạo thành một kết giới bao phủ quanh ngôi nhà, ngăn yêu ma không cho vào được, bên trong phòng nơi Hạ nằm là thầy Đại Trí, mẹ Hạ và đệ tử Nhất Nguyên, còn thầy Nhất Quang thì thầy truyền ở lại giữ chùa Thanh Trúc, sợ yêu ma lợi dụng chùa chẳng có người mà tới hoại thân tượng Phật.
Đến tầm hơn hai rưỡi đêm thì các vết đau nhức lan khắp thân, nội tạng hô hấp của Hạ đều đã rất yếu, rồi từ từ chìm vào trạng thái chết lâm sàng, không còn nhận biết được gì xung quanh, trong cơn mộng mị lúc sắp đi, Hạ thấy cơ thể nhẹ hẫng đi, rồi thân mình tựa như chim mà bay lượn lên không, khi vừa lên thì gặp ngay một quỷ, quỷ đó chính là Vô Tận Ý, chỉ là một bóng đen nhờ nhờ, đội mũ che kín đầu mặt.
Quỷ liền nói với Hạ:
“Kết giới nơi đây dày phủ, các quỷ La Sát và Tột Khốc đang chờ bên ngoài kết giới không vào được, duy chỉ có ta có Thần túc thông, lại có phép Vô niệm ý cùng hợp lại nên trong suy nghĩ của mày mà hiện ra, vào tới được nơi đây, giờ chết của mày sắp đến, như lẽ thường thì người gần chết đi mới thấy bọn ta nhưng mày có căn số nên thấy được sớm hơn, giờ theo ta ra ngoài rồi chúng ta đưa mày về Phủ*.”
(*Phủ: gọi tắt của âm phủ, là công đường nơi xét xử người chết trước khi cho xuống địa ngục hoặc là đi đầu thai.)
Hạ theo quỷ bay lên, nhìn thấy các thầy và mẹ đều đang vì mình tụng niệm luôn miệng, chẳng ai nhìn thấy sự việc, chỉ riêng có thầy Đại Trí là người Huyền nhân thì hình như cảm nhận được điều gì, cứ đưa mắt nhìn quanh khắp phòng, Hạ định gọi thầy nhưng không được, thế rồi hồn Hạ cứ vậy theo quỷ Vô Tận Ý bay ra khỏi kết giới, vừa ra khỏi thì thấy hai quỷ Tột Khốc, La Sát cùng hiện ra, Tột Khốc vung sợi xích Bồ lưu đen nhánh lên trỏ về Hạ định trói lấy cổ thì thấy La Sát cản lại, đoạn lại thôi, thu xích về mà cứ thế chầm chậm bay đi, thần thức Hạ cũng chẳng thèm cầu xin gì, lại chẳng hoảng loạn ngơ ngác như hồn người mới chết bình thường, mà trông vẫn rất điềm đạm ung dung như khi còn sống, cứ thế chầm chậm trôi theo ba bóng quỷ. Các quỷ thấy thế đều nể phục, cho là điều lạ, liền thôi không bắt trói, cứ vậy đi trước dẫn đường cho hồn Hạ theo…
Thế là Hạ mất…
Thật là,
Sống một đời kiêu ngạo
Mất ở tuổi thiếu niên
Bước chân vào hành đạo
Công phu tựa thánh hiền.
…
Đoạn thân xác tái đi, mũi chẳng còn thở, tim chẳng còn đập, thân dần giá lạnh từ ngực trở xuống, rồi cứ vậy lạnh đến hết tứ chi thì dần cứng lại.
Mẹ Hạ phát hiện ra đầu tiên, gào toáng cả lên rồi ngã lăn ra đất, các sư ở ngoài ai nấy xôn xao nhưng thầy Đại Trí trấn an ra lệnh ai ngồi yên chỗ đó, tiếp tục tụng niệm liên tục không nghỉ. Bản thân thầy Đại Trí vỗ về mẹ Hạ mà rằng:
“Đừng có hốt hoảng.”
Nói đoạn ngồi xuống mà tiếp tục tụng.
Mẹ Hạ không nghe cứ gào khóc chẳng yên, hai thầy dỗ sao cũng không nín, cứ ôm lấy xác con trai mà gào, tiếng gào khóc ai oán khắp cả nhà cả ngõ, hai sư không sao tụng được đành bỏ ra ngoài sân mà ngồi tụng, để mặc mẹ Hạ cứ ôm xác con trai mà khóc.
Rồi bỗng nhiên đang lúc bi ai, chợt một sư chạy vào giữa kết giới mà la lớn lên:
“Thầy ơi ở cầu Đen không biết ai phóng hỏa mà lửa cháy cả hai bên bờ sông, người dân mới ra dập lửa.”
Lúc này ngó ra thì thấy cả xóm làng đang huyên náo ầm ĩ, người người nhà nhà đều vác cuốc thuổng, người xách xô cát chạy, người lại mang nước theo, cứ thế ùn ùn đi ra chỗ bờ sông cứu hỏa, cảnh tượng hỗn loạn không tả được, các sư cũng đều dao động hoang mang. Thầy Đại Trí thấy ruột nóng như lửa, quay sang hỏi thầy Nhất Nguyên:
“Mấy giờ rồi?”
Nhất Nguyên đáp:
“Thưa thầy ba giờ kém mười lăm.”
Rồi sư nghĩ lung lắm, bất giác bối rối chẳng biết làm sao, lại nhớ lại lời đạo sĩ đã dặn, nên thoáng lại ngồi yên trấn tĩnh. Nhưng sư Nhất Nguyên bên cạnh lại giục lớn:
“Thầy ơi việc cũng hỏng rồi, sao thầy cứ bình chân như vại thế? Môn đồ nhanh chân mà ra cứu hỏa nếu không lỡ có ai chết, thầy trò mình lẽ nào lại nhìn ngơ?”
Thầy thoáng phân vân, Nhất Nguyên nói đúng, người chết cũng chết rồi, giờ có lẽ phải lo cứu hỏa trước, bách tính bị nạn lửa chẳng lẽ nào lại thôi.
Nhưng thầy còn nghi hoặc lắm, tại sao lại chết bất đắc kì tử như thế? Trên bùa chú rõ ràng đã ấn định ba giờ đêm nay, giờ đây rồng đó còn chưa thấy đến, lý nào lại chết?
Hay do thể chất nó đã suy kiệt nên vì đau đớn mà chết?
Đoạn Nhất Nguyên nói tiếp:
“Thầy ơi dễ khi ta dính mưu lừa của nó rồi chăng? Ngày giờ nó hẹn là giả, nó để thầy trò ta lập kết giới trong này, còn nó thì ngoài bờ sông làm loạn, hoặc là bắt hồn của em Hạ ra sông đó mà thiêu mà giết? Thầy ơi nhanh chân đi thôi còn chần chừ gì?”
Thầy Đại Trí cho là phải, liền chẳng nghĩ nữa, vội vàng chạy vào phòng, gạt mẹ Hạ ra, rờ thân Hạ thấy đã lạnh hết, liền phủ tấm vải trắng lên che mặt, rồi chạy vội ra giữa sân la lớn lên:
“Các trò theo người dân nhanh ra bờ sông dập lửa!”
Các sư nghe xong ai nấy đứng phắt dậy, bỏ hết cả vị trí mà lao nhanh ra đường, nhắm hướng cầu đen, hòa cùng người dân trong khu mà chạy, Đại Trí và Nhất Nguyên cũng chạy vội theo, kết giới liền vì thế mà tan đi, lúc này trong nhà chỉ còn mình mẹ Hạ và xác Hạ nằm đó.
Thầy Đại Trí vừa ra khỏi cửa chạy đi, mọi người ai nấy hối hả, chẳng để ý tới việc có một con rắn đen rất to bò vào trong nhà…
Nguyên là ban nãy, khi đại bàng vừa bay đi thì mặt sông có một con rắn nước bơi rất kín về bờ rồi lên bờ, nguyên nó là một phần thần thức của Đạo kính chết đi tan ra, nhưng gặp may mắn thoát khỏi nạn lửa, rơi xuống mặt sông an toàn nhưng kinh sợ quá không dám ngoi đầu lên nên đành ở im dưới lòng sông chịu cái nóng như thiêu như đốt, dù chết cũng chẳng dám ngoi lên, mãi bây giờ thấy đại bàng đã bay đi lại mới dám ngon lên mà bơi vào bờ trốn. Con rắn đó to như cánh tay người, dài ngoằn nghoèo trông dị thường vô cùng, nó lên được bờ rồi cứ thế cắm đầu chạy một mạch về nơi còn sót lại chút linh khí cuối cùng đang phát ra rõ, đó chính là nơi nó đặt ra kết giới để làm phép Biến di, chính là đạo bùa chú đã vẽ ra trên lưng Hạ… vậy là rắn cứ nhằm thẳng hương nơi nhà Hạ mà chạy không dám quay đầu lại.
Khi tới cổng nhà Hạ rắn đứng ngoài nghe ngóng vì thấy có kết giới rất mạnh đang bảo vệ quanh ngôi nhà nên không vào được, mãi lúc sau thấy có sư Nhất Nguyên xúi, cả thảy tăng đoàn liền phá kết giới mà chạy ra cứu hỏa ở sông Hạc, khi đó rắn mới bình tĩnh lẻn vào, lúc này trong nhà chẳng còn ai, rắn cứ thế nhắm hướng nơi bùa phát ra linh khí mà bò tới, lúc này đồng hồ đã chỉ đúng ba giờ, là lúc linh khí đang phát ra mạnh nhất, giờ hồn xác đã tan cả, nhanh bám vào đó thì còn giữ được thần thức, rồi từ từ kiên trì tu luyện có ngày còn khôi phục được, chứ cứ ở trong thân rắn chẳng chóng thì trầy hoặc bị loài ngươì bắt ăn thịt, hoặc bị các loài động vật ăn thịt khác bắt được giết mất.
Vào tới phòng Hạ, rắn thấy người mẹ đang nằm bên giường ôm con mà khóc, mới nghĩ thầm trong bụng:
“Giờ mới đến giờ linh khí phát ra, cớ sao lại đã khóc từ lúc nào? Chết từ lúc nào rồi đây?”
Đoạn bò trườn lên giường Hạ, thấy Hạ xác đã lạnh, người mẹ cứ thế ôm lấy con mà khóc mãi không thôi, đoạn rắn lao lên cắn một nhát cực mạnh vào gáy bà…
Một dòng máu đỏ phun ra từ hai vết răng nanh.
Mẹ Hạ hét lên kinh hãi, quay nhìn sang thì thấy con rắn dài to lù lù đang đứng ngay bên mình thì hồn phách lên mây, hét một tiếng kinh hoàng rồi chẳng còn nghĩ ngợi được gì, chỉ biết theo phản xạ ôm chầm lấy xác Hạ mà bảo vệ không cho con rắn kia phạm vào thân con, rồi độc tố lan ra rất nhanh, mẹ Hạ lả đi ngay trên xác Hạ nhưng tay vẫn cứ ôm cứng bảo vệ lấy xác con, rắn lao đến cắn thêm hai phát vào tay vào lưng, bà vẫn ôm xác con khư khư không cho chạm, rồi chỉ trong phút chốc, người lả đi, độc theo máu mà phủ khắp nội tạng.
Rồi mắt mờ đi, cố gượng nhìn mặt con trong vòng tay lần cuối, sau dần chẳng còn biết gì, quỷ Tột Khốc hiện ra chẳng thèm nói năng, quăng xích bắt ngay đi…Mẹ Hạ chết, tay vẫn ôm chặt xác con…
Thật là,
Mới đây còn thấy nói cười
Chỉ trong phút chốc thành người âm dương
Con đi con có mẹ thương
Mẹ đi thì chỉ lên đường lẻ loi
Thân mẹ máu chảy thành ngòi
Xác con đã lạnh mẹ đòi theo chăng?
Mẹ đây có chết chẳng màng
Dùng thân che chở mà quàng lấy con…
Đoạn cắn chết mẹ Hạ rồi, rắn ngỏng đầu trườn lên thân Hạ, chợt thấy linh lực phát ra lạ thường, trong bụng rắn mừng thầm…Gặp may rồi, gặp kẻ có căn U ẩn linh thiêng, chết đi vẫn còn khí tụ, chiếm lấy xác nó làm nơi nương thân thì đỡ được thập phần thời gian hồi phục…
Nói đoạn chồm tới mặt Hạ…
…
Lại nói về Hạ, cứ đi theo các quỷ mãi, tới một chốn u minh, xung quanh đầy những ma quỷ đang bò trườn ra xin ăn, lúc này quỷ Vô Tận Ý quay sang nói với Hạ:
“Đây là dõi Dịch âm.”
Rồi giảng cho Hạ nghe về cõi ấy.
Hạ chẳng nói gì, nhìn những bóng ngạ quỷ bủng beo, trọc lốc đi không vững mà thầm thương xót cho chúng.
Thật là,
Thương cho cõi ngạ quỷ
Quanh năm chẳng khói hương
Ăn vào đều hóa lửa
Cháy thấu tới tận xương.
Đi hết cõi Dịch âm các quỷ lại dẫn Hạ qua Quỷ môn quan*, sau khi qua cửa này thì Tột Khốc biến mất, chỉ còn quỷ La Sát và Vô Tận Ý dẫn Hạ vào trong, qua quỷ môn quan thì chúng nó dẫn Hạ lên một con đường trải dài miên man vô tận, hai bên chỉ mọc một loại hoa đỏ rực, gọi là hoa Mạn thù sa*, không có cành lá, chỉ có màu đỏ, hòa cùng màu đen thăm thẳm tới cuối chân trời.
(*Quỷ môn quan: cửa vào âm phủ; *Mạn thù sa: còn gọi là hoa Bỉ ngạn, chỉ rực một màu đỏ.)
Vô Tận Ý giảng:
“Những người chưa hết dương thọ mà không may chết bất kì sẽ nằm lại trên con đường này chờ khi nào dương thọ của họ hết thì về âm ti nghe xét xử, những người đó đều là vong ma ngạ quỷ, còn đường này tên là đường Huỳnh tuyền.”
Rồi nó nắm lấy tay Hạ, niệm chú lầm rầm, tức thì cả hai quỷ và Hạ đều tan đi, hiện lên ở cuối con đường đó.
Sau đấy chúng nó dẫn Hạ tới một ngọn đá to, hình thù không rõ ràng nhưng to chắc cỡ khoảng ba mét, rộng chừng hai mét, rồi quỷ nói:
“Đây là Đá ba đời*, nhìn vào đây thì biết hết chuyện của kiếp này và kiếp trước từng làm thiện làm ác thế nào, có muốn thử nhìn hay chăng?”
(*Đá ba đời: Tam sinh thạch, một cửa dưới âm phủ, nhìn vào đá ấy là biết nhân duyên kiếp trước.)
Hạ là người đã giác ngộ thiền môn, biết tiền hậu kiếp đều chỉ là giả tạm, nén được tò mò, liền lắc đầu nói không.
Vậy là các quỷ lại dẫn đi, tới một ngọn đài cao, đài đó rất lạ kì, mặt như cánh cung, lưng như dây cung ngang nhau, trên rộng dưới hẹp, ngoài con đường dẫn lên đỉnh đài còn lại xung quanh toàn rừng đao biển kiếm.
Quỷ nói:
“Đây là Vọng hương đài, nhìn về nó thì thấy người thân mày lần cuối. Mày muốn lên xem không?”
Hạ lắc đầu bảo không.
Chúng quỷ lại dẫn Hạ đi nữa, tới một con sông rất lớn, sông đó nước đỏ như máu, bên dưới trôi nổi nào vong ma ngạ quỷ, trùng độc rắn rết, lại bốc lên mùi tanh hôi kinh khủng, tiếng kêu gào thảm thiết.
Quỷ nói rằng:
“Đây là Vong xuyên hà, nếu nhảy xuống sông này thì ở đây đủ nghìn năm mới về dương thế, nhưng vẫn giữ được kí ức, nếu không xuống đây ở thì phải quên đi kí ức. Mày chọn ra sao?”
Hạ lặng im không đáp, chúng quỷ nhìn nhau, rồi Vô Tận Ý nắm lấy tay Hạ mà niệm chú Biến di, khi Hạ mở mắt ra thì đã ở bên kia sông.
Hai quỷ La Sát và Vô Tận Ý lại dẫn Hạ đi nữa. Đoạn tới một chân cầu rất lớn gồm có ba tầng, tầng trên đỏ, tầng giữa màu đen vàng, tầng dưới màu đen tuyền, quỷ Vô Tận Ý nói:
“Cầu này là cầu Nại hà, đi qua cầu này là tới phủ ta, cầu này chia làm ba tầng tùy vào nghiệp lực mỗi người mà đi được tầng tương ứng, khi đi nếu ngoảnh mặt nhìn lại sẽ bị rớt xuống sông này, bị rắn đồng chó sắt ăn hồn.”
Rồi quỷ chỉ vào một người đàn bà đang múc một nồi lớn ngồi ngay đầu cầu mà giảng:
“Kia là Mạnh bà*, người đó dùng nước mắt của vong ma ngạ quỷ nấu lên một thứ nước gọi là Vong ưu tán*, uống nước đó vào thì quên hết tiền kiếp, nếu không uống nước đó thì trở lại sông ban nãy mà bơi.”
(*Mạnh bà: người cho uống thuốc lú; *Vong ưu tán: canh mạnh bà.)
Hạ chẳng đáp lại.
Lúc này La Sát quay lại bỏ đi, chỉ còn quỷ Vô Tận Ý lại cầm tay Hạ niệm chú, Hạ nhắm mắt lại, khi mở ra thì đã qua bên kia cầu Nại hà, trí nhớ ý thức vẫn đểu còn nguyên.
Bấy giờ Hạ mới hỏi quỷ:
“Sao tôi không phải chịu các ải đó?”
Quỷ đáp:
“Huyền nhân được Tam quỷ dẫn đi thì không phải chịu các ải đó, giờ đưa ngươi vào gặp thẳng Diêm Vương.”
Nói đoạn lại nắm tay, Hạ biết ý nhắm mắt lại, quỷ niệm chú, vậy là cùng tan đi.
Thật là,
Phút lâm chung, cận kề tử giới
Quỷ dẫn lối, âm phủ dạo chơi.