28.
Lại nói kể từ sau đêm đó, Hạ về chùa ở, Đại Trí vui lắm, mặt lúc nào cũng tươi như hoa. Hạ lên chùa một mình thì buồn, nên xúi Phương lên chùa ở cùng, rồi lại dùng lời ngọt mà dụ sư Đại Trí tới xin phép mẹ Phương, như thế lại trúng ngay ý sư nên sư mừng ra mặt, được cả hai bên cạnh thì còn gì sướng bằng? Thế là sư năm lần bảy lượt cứ ghé tới nhà Phương mà xin cho Phương lên chùa cùng.
Chuyện cũng chẳn khó gì, Đại Trí lại bộc bạch hết chuyện Phương bị vong ám cho mẹ nghe, mẹ Phương nghe xong thì sợ tái cả mặt, vậy là cho Phương lên chùa ở ngay. Thế là kể từ đó, Phương cũng lên chùa ở cùng thầy, từ khi tới chùa ở thì thi thoảng mới về thăm mẹ, còn bình thường chẳng bước chân khỏi cửa chùa bao giờ, và bệnh đau đầu cũng mất hẳn, chẳng còn nghe thấy giọng nói quỷ thần nữa, Phương hy vọng về lâu về dài nó sẽ sinh chán nản mà buông tha cho Phương.
…
Thấm thoắt lại đã nửa năm trôi qua, Phương và Hạ đều sang tuổi hai mươi mốt.
Hôm ấy là rằm tháng bảy, ngày lễ xá tội vong nhân* và cũng là ngày lễ Vu lan bồn*. trời đêm đó trăng thanh gió nhẹ, bầu trời chẳng một áng mây, Phật tử đểm ấy tới chùa rất đông khấn bái.
(*Ngày xá tội vong nhân: ngày của các vong hồn, ngày cúng cô hồn, đây là ngày địa ngục mở cửa để các vong hồn về nhân gian, đồng thời các ngạ quỷ cũng được tụ do đi lại; *ngày Vu lan bồn: ngày báo hiếu cha mẹ, vào ngày này, ai còn cha mẹ thì cài hoa đỏ lên ngực, còn mình cha hoặc mẹ thì cài hoa hồng, không còn ai thì cài hoa trắng.)
Phương và Hạ cả ngày lo việc phật sự lễ lạt đã oải hết cả người, lúc này đây cả hai đang cùng ngồi uống nước trà ngay nơi ghế đã giữa sân chùa, chiếc ghế đá đã viết lên một giai thoại li kì có một không hai về việc một nhà sư và một đạo sĩ cùng ngồi cười đùa với nhau dạo nọ, giai thoại đó nhanh chóng lan truyền trong giới Phật tử và tăng ni khắp tỉnh, thầy Đại Trí cũng vì vậy mà gặp khá nhiều phiền phức với giáo hội.
Cả hai lặng nhìn dòng người tấp nập bu kín cả sân chùa đang chắp tay khấn vái lầm rầm, thầm nghĩ lại những chuyện đã xảy đến suốt thời gian qua…
Phương liếc sang Hạ, ngực nó cài bông hoa trắng, có nghĩa là nó cũng đã phủ nhận sự tồn tại của cha…cả ngày hôm nay nó đã quỳ lạy chân tượng Địa tạng Vương Bồ tát để cầu xin người giúp cho mẹ nó ở cõi u minh…
Chợt từ đâu tới có một đám thanh niên choai choai đi qua, một cô gái độ chừng hai mươi tuổi nhìn thấy hai người trẻ tuổi đều mặc áo lam nhà chùa, trông đều khôi ngô sáng sủa như thế liền buông lời trêu ghẹo:
“Đẹp trai thế mà đi tu phí vậy các em…”
Rồi cả đám lại cười ồ lên mà đi.
Chợt Hạ nhìn chị ta nói:
“Thôi lo thân chị đi, chị sống cũng chẳng còn được mấy ngày đâu mà quản chuyện thiên hạ.”
Cả đám thanh niên quay lại kinh ngạc nhìn Hạ và Phương, rồi một người có vẻ là bạn trai hoặc chồng của cô đó mới sát lại gần Hạ mà lớn tiếng:
“Thằng này mày đang rủa ai đấy? Mày tưởng người nhà chùa thì tao không dám đánh mày à?”
Nói đoạn hùng hổ nắm lấy vạt áo Hạ.
Hạ trừng mắt lửa nhìn lại thì người đó có thoáng lúng túng, rồi mọi người xúm lại can nên người nam đó buông tay ra, ngay lúc ấy thì thầy Nhất Nguyên đi tới…
Cả đám thanh niên và cả những người qua lại, những người đang đứng hiếu kì đều cúi chào thầy kính cẩn.
Thầy chẳng bận tâm tới đám thanh niên nọ, đi qua hết thảy họ rồi nói với hai cậu:
“Hai em ngồi ngoài này thảnh thơi thế, trong Chính điện còn biết bao nhiêu việc, thầy cho tìm hai em đấy.”
Cả hai lập tức đứng lên, khi ba người đi ngang qua những thanh niên nọ thì cô gái ban nãy níu lấy tay áo thầy Nhất Nguyên mà nói:
“Dạ con thưa thầy…”
Thầy gạt tay cô ra, chắp hai tay xá chào đáp lễ:
“A di đà Phật, thí chủ có chuyện gì?”
Cô ta chỉ tay về Hạ, nói đầy vẻ hoang mang:
“…cậu này nói con chẳng còn sống bao nhiêu ngày nữa…”
Cả đám đông nín lặng dõi theo sự việc. Thầy Nhất Nguyên quay lại nheo mắt nhìn Hạ hỏi:
“Đệ nói thế là sao?”
Lúc này Hạ ung dung đáp:
“Sư huynh biết đệ và Phương học được phép Tướng âm* mà, tướng cô này quỷ nằm, lại có âm khí tỏa ra, mức độ như thế thì thọ sao được.”
(*Phép Tướng âm: hành giả học được phép này xem được tướng người âm dương, người sắp mất.)
Nói xong nắm tay Phương mà đi, nhưng họ nào có cho đi, cô gái níu ngay lấy tay hai cậu lại mà tha thiết nói:
“Chú ơi người xuất gia chẳng nói đùa, chú xem có thấy việc gì xấu thì chú chỉ dạy cho con với.”
Lúc này Phương mới lên tiếng giảng cho cô nọ:
“Hạn chị cũng chẳng khó giải nên chớ có lo gì, chị về bảo gia đình tới gặp, chuẩn bị sẵn đồ lễ mà làm lễ giải hạn đi thì cũng chẳng đến mức nguy đâu…”
Nói rồi hai người dứt khoát đi thẳng. Thầy Nhất Nguyên cũng vội vàng đi theo sau.
Đám đông xì xào không ngớt, vẻ hoang mang vẫn còn nguyên trên nét mặt cả đám thanh niên, chẳng ai nói nổi câu nào, tâm thần đều lo sợ, nhất là cô gái bị Hạ chỉ điểm.
Riêng Nhất Nguyên nhìn hai đệ mà lòng đầy nghi hoặc…
Công phu hai em Diệu Thiện, Diệu m đã tới mức nào rồi?
Thật là,
Tinh thông tướng âm quỷ
Lại thông cách giải trừ
Phát căn cơ vô lượng
Huyền thuật vượt cả sư.
…
Bấy giờ cả ba đi vào trong Chính điện, thấy nơi đây chật kín cả người, nay là đại lễ nên dù đã có rất đông Cư sĩ, Phật tử, đoàn thanh thiếu niên Phật tử giúp sức, cộng thêm tất cả sư tăng trong chùa vẫn không đủ phục vụ nhu cầu của khách thập Phương. Phương và Hạ đều biết rõ việc Phật sự nhưng Cư sĩ thường khinh hai cậu tuổi nhỏ nên lâu nay xem thường không nghe, do vậy các cậu ít ra coi việc, sợ gây xích mích lại thêm phiền. Thầy Đại Trí biết thế cũng thầm khen hai cậu biết nghĩ, nên thường để yên cho tự do nhưng riêng hôm nay công việc độn lên nhiều quá rồi lại phải gọi vào giúp. Hai cậu làm việc rất nhanh, bao nhiêu việc phật sự đều làm rành rọt, các nghi thức nơi phật giáo cũng am hiểu cặn kẽ, phân công công việc đều chỉnh mỉnh đàng hoàng, từ đó các cư sĩ mới phục, cho là bậc huyền nhân, không còn bắt bẻ gì nữa.
…
Một hôm, nhân lúc thời tiết mát mẻ, công việc rảnh rỗi, các sư Đại Trí, Nhất Nguyên, Nhất Quang, Phương và Hạ mới cùng ngồi ở sân chùa mà uống trà hóng gió, nhân đó Phương liền kể lại hết những việc đã xảy đến cho mọi người cùng luận bàn, từ việc quỷ Kinh Tâm thả Dạ xoa và đại bàng trên sông Hạc, cho tới luồng sáng nơi thần chú ở ngực, còn Hạ cũng đem việc đi âm giới, gặp được Địa Tạng Vương Bồ tát và việc trở về nhân gian thì giết ngay rồng Đạo kính cho mọi người cùng nghe.
Nghe xong cả thì thầy Nhất Quang kết luận:
“Có thể chắc chắn rằng người thường không thấy được nó, kể cả Huyền nhân như Phương hay như thầy cũng không thấy được, chỉ có người đã chết hoặc là quỷ thần mới thấy được hình dáng nó, qua lời kể của vong ma cô Hương và rồng Đạo kính trước khi họ tan về ngục, hiện tại chỉ có thể biết hình dáng nó là một nữ quỷ, tên là Kinh Tâm, dùng được xích Kim lưu màu vàng rất mạnh có thể bắt trói được quỷ thần.”
Mọi người đều gật gù tán đồng với sư, rồi Hạ chợt lên tiếng:
“Con thấy có điểm lạ, những quỷ thần mà Kinh Tâm từng thả ra gồm có Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Dạ xoa, Ca-lâu-la, đều thuộc về giống nòi của Bát bộ chúng, con đã tìm hiểu nhiều sách kinh thì thấy mô tả trong các kinh đại thừa về Bát bộ cơ bản đều tương tự nhân dạng của chúng như thế.”
Các sư đều cùng ồ lên kinh ngạc, điều này đúng là chẳng ai để ý ra…
Sư Nhất Nguyên im lặng nhìn Hạ, trong lòng thầm đánh giá, sự thông minh của nó chùa này chẳng ai còn lạ gì, so với Phương thì nó thông minh hơn hẳn, lại siêng năng tinh tấn, căn số nó cũng thuộc hàng thượng vô đẳng, người thế này chỉ ít năm nữa thôi công đạo tròn đầy thì chẳng có cách gì mà trị được.
Thầy Nhất Quang lại nói:
“Em Diệu m nói chẳng sai? Vấn đề bây giờ là Bát bộ đều là chúng quỷ thần rất mạnh, không dễ gì mà chịu làm âm binh cho kẻ khác sai khiến, vậy quỷ Kinh Tâm đó ra sao? Oai lực nó thế nào mà sai khiến được thần trong Bất bộ? Theo như tôi biết thì mạnh như quỷ Tột Khốc cũng chỉ dùng được xích Bồ lưu, còn với xích Kim lưu chẳng biết là hạng pháp khí thế nào?”
Mọi người đều nhìn nhau trầm ngâm thắc mắc, điều này nằm ngoài hiểu biết của họ, rồi không nói mà cùng ý nghĩ, tất cả quay hướng về nhìn thầy Đại Trí.
Bấy giờ sư mới chậm rãi mà thuyết cho chúng đệ tử nghe về những vị có oai lực đó:
“Xích Bồ lưu là pháp khí của quỷ sai để bắt vong hồn mang đi, xích Kim lưu không những bắt được vong hồn mà còn thao túng được, thông qua xích thì hành giả cảm ứng được ý nghĩ cho vong hồn bị trói để sai khiến nó làm việc, cũng như đọc ý nghĩ của vong hồn. Dùng được xích Kim lưu thì chẳng phải là quỷ thần bình thường, dùng được xích ấy đầu tiên phải kể đến hàng chư Phật Bồ tát, tiếp đến là hàng Bích Chi Phật, rồi tới hàng tôn giả đắc được Tứ thánh quả, hàng Thanh văn, Duyên giác*, hàng Diêm Vương, sau nữa tới con người thì phải là những người được phong thánh, hoặc là các Huyền nhân có căn cơ sâu bền từ thời hành pháp, tưởng pháp, cho đến thời nay là thời mạt pháp thì suốt cả đời ta tu đạo cũng mấy chục năm chưa từng thấy có ai dùng được xích Kim lưu.
(*Thanh văn, Duyên giác: hàng Tỳ kheo đệ tử Phật.)
Mọi người nghe xong đều kinh hãi hoang mang, đó đều là các bậc lớn, nếu quỷ kia là một trong số họ thì làm sao mà chống lại được đây?
Riêng Hạ lại hỏi:
“Thần linh không có trong số đó, vậy mà lại có hàng người, thế hóa ra người còn mạnh hơn quỷ thần sao?”
Sư Đại Trí đáp:
“Đúng vậy, nghe thì khó tin, nhưng giống người là giống mạnh hơn quỷ thần nhiều chứ, chỉ là thế giới Ta Bà loài người hằng hà sa số, người luyện được đến như thế thì cũng đã chứng được hết các quả vị Phật hoặc Bồ tát mà về Tây phương lâu rồi, việc gì phải chìm nổi nơi nhân gian mà trêu người…”
Thầy Nhất Nguyên nãy giờ lặng im, bây giờ mới lên tiếng:
“Con nghĩ phải có nhân duyên gì thì người giỏi như vậy mới chưa về được nước Phật, hay là do chết yểu không có ai làm lễ tế cho? Dù sao đó cũng là hàng vô thượng, sức người như thầy trò mình sao mà chống nó nổi, vậy chi bằng cứ để em Diệu Thiện làm lễ cho nó, biết đâu chỉ cần lễ đó xong là nó sẽ đi không quấy nhiễu nữa?”
Hạ kể từ ngày lên chùa đêm nào cũng chong đèn đọc sách tới tận rất khuya, ngày học rồi luyện tập tới mười mấy tiếng, chỉ cốt mong nắm vững sự việc, bắt được quỷ trả thù cho mẹ, nghe sư nói bừa vậy, lại vốn chẳng có thiện cảm với sư từ lâu, tính lại nóng nảy kém kiềm chế, lúc ấy không chịu nổi thì bực mình lớn giọng nói át đi ngay:
“Sao mà tùy ý vậy được? Tôi đây đọc bao nhiêu sách, thức trắng cả đêm, miệt mài tìm hiểu rốt ráo rồi mới nói ra, còn huynh sao dám nói bừa? Sư huynh chẳng biết rằng phàm là nghi thức tế, dù là nghi thức tế quỷ hay nghi lễ tế thần, dù là từ quá khứ hay trong hiện tại, cái giá phải trả đều là tính mạng của kẻ hiến tế hay sao? Huynh nên nhớ cho đây là tế thần chứ chẳng phải là lễ cúng bái kêu cầu thông thường, dù là lễ tế vong ma ngạ quỷ căn cơ thấp kém còn đang phải có rượu thịt hoa quả đề huề, cho đến bậc thần giữ núi giữ miếu còn phải có xác sống máu tươi của súc sinh, thậm chí trong thời Phật quá khứ còn có những thần đòi tế gái trinh, đòi tế máu nóng, đầu người…nói gì tới đây là tế một linh lực có oai lực lớn như thế, làm sao mà giữ được mạng? Đêm nọ nó tàn sát quỷ thần ở sông, giết bao nhiêu cả người cả quỷ, ngay cả mẹ tôi cũng chết, một loài như thế mà huynh nghĩ rằng nó chỉ cần tế cho là sẽ bỏ mà đi sao? Huynh theo thầy đã lâu làm việc phật sự mà những điều như thế không tìm hiểu cho kĩ lại xúi các đệ làm bừa, huynh muốn đẩy Phương vào chỗ chết à?”
Hạ nói luôn một tràng. Sư Nhất Nguyên tức tái cả mặt, hầm hầm chẳng nói năng gì.
Thầy Đại Trí thấy không khí căng thẳng liền lên tiếng trấn an:
“Khen cho Diệu m con kiến thức rất sâu, phân tích rất đúng, nhưng huynh con cũng chỉ là góp ý, dù có sai quấy thì thôi con là phận em cũng không nên nói huynh con vậy.”
Hạ không nghe lời thầy, đứng phắt dậy trỏ mặt Nhất Nguyên mà rằng:
“Làm việc âm dương, mỗi hành động nhỏ đều liên quan đến mạng người, hành sự phải cẩn thận nghiêm trang, tìm hiểu cho thấu đáo, chính thầy đã đạy con như thế. Còn hắn cư xử hành động đều ẩu đoảng hấp tấp, ví như việc đêm nọ hắn hấp tấp cứ giục vội thầy đi ra sông, để yêu ma vào nhà mà giết mẹ tôi, từ đó tôi theo dõi hắn đã lâu, hành vi hắn khả nghi không đoan chính, các người chỉ vì đều quá nhân từ cả tin mà không biết việc đó thôi…”
Nói rồi mắt lửa đỏ phừng phừng, nhìn thẳng mặt sư, sư thấy Hạ nói trúng tim đen, thì rùng mình ngó đi chỗ khác.
Rồi Hạ đứng lên chào thầy xong bỏ đi thẳng.
Thầy Đại Trí nghe Hạ nhắc đến việc đêm mất mẹ như thế, tự bản thân cũng thấy áy náy có lỗi. Mọi người ai nấy đều thương cảm, nhưng không ai tin lời Hạ mà nghi cho sư Nhất Nguyên, cho là vì quá thương nhớ mẹ nên Hạ hành động như thế, cũng không ai chấp Hạ.
Từ đó hai người huynh đệ cùng chùa nhưng chẳng nhìn nhau, cứ gây khó dễ cho nhau liên tục, trong chúng tăng nảy sinh sự bất hòa, mà Hạ chưa phải là sư, Nhất Nguyên lại là huynh trưởng, do đó Hạ thường bị các sư bức cho bí bách, phải nhịn nhục rất nhiều…
Thật là,
Ma dùng mưu, người phải dùng trí
Lửa hận lên, mắng át cả tăng.