30.
Nơi hầm mộ tối thui không có chút ánh sáng nào lọt vào, mà dù cho ánh sáng có thể lọt vào thì giờ cũng đang là ban đêm, nên cũng chẳng thấy được gì, tuy nhiên Hạ có mắt lửa Bồ tát khai thị cho, nên nhìn trong mộ đó rõ như ban ngày, không gặp trở ngại gì.
Hạ dò dẫm từng bước chân, bước xuống dưới là các bậc thang làm bằng đá, Hạ đưa mắt đảo quanh, bước sâu xuống tới hết cầu thang thì thấy một căn phòng trống. Phòng ấy lát bằng đá màu xám kể cả từ nền cho tới trần và bờ tường, lối đi vào phòng chỉ có một lối duy nhất là cầu thang hướng lên trên cửa hầm mộ mà Hạ vừa đi tới, giữa phòng đặt một quan tài bằng gỗ Hoàng đàn*, quan cao chừng một mét, rộng bảy mươi phân, dài hai mét hai, bốn góc phòng có đặt tượng bốn con, góc bắc đặt tượng Rồng, góc nam lại đặt tượng Rùa, góc đông đặt tượng Kì lân, góc tây đặt tượng Phượng hoàng, tất cả cùng chĩa mặt về mộ nằm ở trung tâm, trên mặt mỗi con đều có dán mảnh bùa đỏ, trên các mảnh bùa đều ghi ba chữ: “Cấm- Di- Xuất”. Ngay thẳng với hướng đầu mộ nhìn lên, sát vào bờ tường, khắc lên trên tường đá là hình ngôi sao năm cánh ứng với ngũ hành kim, mộc, thủy, hỏa, thổ, hai bên ngôi sao dọc theo hướng quan tài là hình hai xoáy trôn ốc dài, hướng to lên trên, hướng nhỏ xuống dưới, dưới hình khắc ngôi sao năm cánh, lại hình vẽ một thanh đoản kiểm trấn yểm, nằm cạnh một thanh kiếm dài, kiếm đó chĩa hướng nam, đai kiếm hướng về mộ, phía trên ngôi sao đó vẽ hình một con gì kì dị không rõ, nửa như trâu lại nửa như hổ, tay nó nắm chắt sợi xích dài, tay kia cầm một cây cung, bên phải cây cung lại là một hàng chữ hán nôm lạ được vẽ vời ngoằn ngoèo, những hình khắc đó bao trùm thâm nhập, giống như hình một đạo bùa thiêng lớn được khắc trên bức tường đá lớn, giống như chiếc lưới bủa vây bao trùm lấy mộ…thật là một di sản vĩ đại, một đỉnh cao của nghệ thuật bùa chú trấn yểm, kẻ làm bùa chắc hẳn phải là một thầy pháp cao tay. Như thế là càng tôn lên được sức mạnh của kẻ nằm trong hầm mộ kia.
(*Gỗ Hoàng đàn: loại gỗ quý, rất thơm, để nghìn năm cũng không bị mối mọt, trên bề mặt nó có tinh dầu, gặp không khí thì kết tủa thành một lớp khỏi trắng mỏng trông như tuyết phủ rất đẹp, gỗ thường được dùng để điêu khắc các tượng Phật quý, làm gia bảo hoặc di sản truyền đời.)
Hạ say mê ngắm nhìn bùa ấy, tuy chưa đủ sức học để hiểu được bùa ấy nhưng đã bị vẻ đẹp của bùa làm cho mê mẩn. Rồi đoạn lại đi vòng ra phía chân mộ, thì thấy có tấm bia lớn, Hạ ngó vào bia thì thấy trên bia ghi sơ lược về tiểu sử của người nằm trong mộ…
Bia ghi như sau:
MỘ PHẦN CỦA THIÊN PHU NH N: THANH TRÚC KINH T M
SINH NĂM: CANH TÝ(1240)
MẤT NĂM: T N MÙI (1271)
HƯỞNG DƯƠNG: 31 TUỔI.
TIỂU SỬ: Phu nhân chính thất của Viễn Chinh Hầu, thiên tả tướng quân Thiên Minh, người từng có nhiều công lao đóng góp trong cuộc chiến chống quân Mông Nguyên xâm lược và sự xâm lược của Phương Bắc, có nhiều công trạng trong việc trừ yêu ma, trấn yểm bùa chú của phương Bắc lên nước Nam…
Hóa ra là một người liệt nữ anh hùng, chắc chắn có công phu rất lớn nên mới được lập mà thờ thế này… nhưng yêu quái nào nhập được vào người đó mà để tới mức phải lập ra bùa trấn yểm vòng trong vòng ngoài, rồi phải còn sai cả thần canh giữ?
Hạ nhìn bên trái mộ thấy có một lá bùa dán vào hông trái, trên lá bùa vẽ hình một hộ pháp tay cầm kiếm sắc, ở trên ghi ba chữ Kim sa Vương. Vậy là thần canh ban nãy theo hiệu lệnh của bùa này mà ở đây canh giữ.
Hạ ngắm nghía lá bùa hồi lâu… bùa này là bùa do con người viết ra…Có kẻ đã thả vong hồn của nữ phu nhân ra, nên yêu ma bị trấn yểm trong người phu nhân cũng theo đó mà ra ngoài…có thể chính phu nhân đã hy sinh thân mình, biến thân mình thành vật trấn yểm để trấn yểm các yêu ma đó…phu nhân ấy cũng qua đời khi ở tuổi ba mươi mốt, cũng là nữ nhi, có khi nào vong ám lên người Phương chính là vị phu nhân này chăng?
Trong chùa có một di sản vĩ đại thế này mà thầy Đại Trí chưa từng nói với Hạ bao giờ, hay là có khi chính thầy cũng không biết? Có lẽ phải mang việc này kể ngay với thầy và Phương…
Hạ lại thấy bên phải của mộ phần có đặt một chiếc cung tên lớn làm bằng gỗ, đầu mũi tên bịt kim khí vàng, và một ống đựng tên, bên trong còn tám mũi tên, đều làm bằng gỗ, đã hơn bảy trăm năm trôi qua nhưng hình dạng cũng chẳng mai một nhiều…
Hạ thầm thấy thán phục trong lòng…khi sống phải là người thế nào? Thì chết đi mới được thế này…
Hạ ngồi hẳn xuống nền đá lạnh của hầm mộ, đặt bàn tay lên mộ mà vuốt ve, cảm thán vô cùng người nằm bên trong…Trong lòng Hạ chợt dấy lên mong muốn cũng như người nữ pháp sư đang nằm trong mộ này, dùng tài năng pháp khí đi rong ruổi khắp nơi mà trừ yêu ma, làm lợi cho muôn dân trăm họ, hành đạo giúp đời, lưu danh thiên cổ đời đời, tiếng thơm đến nghìn năm sau vẫn có người nhang khói, vẫn có thần giữ mộ… người mà sống được như thế thì trên đời nào còn gì sánh bằng?
Đoạn lại nhìn mộ mà thầm nghĩ…có phải hồn phách phu nhân đã thoát ra ngoài ám lên Phương chăng? Vậy thì nó chính là cừu thù giết mẹ ta, chẳng biết trong mồ này còn hài cốt người hay không? Còn vật gì trấn bên trong chăng?
Hạ thoáng có suy nghĩ muốn mở mộ ra, nhưng lại nghĩ sợ rút dây động rừng, gây ra hậu họa như hồi ở sông Hạc, nên sau kìm được lại thôi, lại thầm nghĩ trong đầu cứ mang chuyện này nói với Đại trí trước, rồi thầy trò cùng nhau mưu việc, nghĩ vậy Hạ vội vàng lui ngược cầu thang lên trên.
Nhưng vừa bước ra khỏi cửa mộ thì lại thấy ngay hai bóng người đã đứng chờ sẵn từ lúc nào rồi, chính là thầy Nhất Nguyên và thầy Đại Trí…
Hạ kinh hãi rụng rời, hoảng hồn nhìn quanh thì các vong phật tử đều đã trốn hết cả, có lẽ chúng nó sợ thầy Đại Trí nên không dám cản lại…
…
Lại nói hóa ra khi Hạ về phòng rồi đi khỏi thầy Nhất Nguyên đã nhìn thấy, thấy sự lạ nên thầm đi theo xem sao, khi thấy Hạ xé bùa ra để bước vào hầm mộ thì kinh hãi chạy về báo cho thầy Đại Trí hay…Thầy Đại Trí tới nơi thì thấy bùa đã bị xé, thần canh mộ cũng chẳng thấy đâu, thầy gọi chúng vong trong Địa thanh giới lên hỏi thì con nào cũng lắc đầu bảo không biết gì hết, chỉ biết có một cậu thiếu niên đã đánh đuổi thần đi, rồi xé bùa phong ấn để đi vào trong mộ, dặn họ ở ngoài cảnh giới, hiện giờ cậu ta đang ở bên trong.
Thầy nghe xong thì trong lòng hoang mang lo lắng, liền bảo các vong lui đi. Đoạn định đi xuống mộ xem bên dưới có chuyện gì nhưng ngần ngừ chưa quyết được…
Nhất Nguyên lại nói nhỏ vào tai thầy rằng:
“Con xem chừng có điều bất thường, mộ này đã phong ấn ở đây cả mấy trăm năm sao tự nhiên nó mở mộ ra? Em Diệu m mới về chùa được vài ngày mà đã muốn liên hệ với quỷ thần trong chùa ta rồi, con nghi là nó có tâm bất chính…”
Thầy trầm ngâm suy nghĩ, đang mải nghĩ chưa biết ra sao, có nên theo vào mộ hay không thì đúng lúc thấy cửa hầm mở ra, Hạ mò mặt mặt ra.
…
Hai mắt chạm nhau, Bấy giờ thầy Đại Trí nhìn Hạ nghiêm nghị mà rằng:
“Đêm hôm con ra đây làm gì?”
Hạ nhất thời lúng túng chẳng biết đối đáp ra sao, thì Nhất Nguyên nói:
“Thưa thầy, tận mắt con nhìn thấy em Diệu m xé bùa phong ấn mộ ra, có lẽ em ấy đã thả cho yêu ma trong mộ ra ngoài rồi.”
Hạ phân trần với thầy:
“Thưa thầy không phải, yêu ma trong này đã thoát ra từ trước rồi, con thấy điều lạ như thế nên mới vào thị sát thử xem thực hư thế nào?”
Nhất Nguyên quắc mắt quát lớn:
“Đã làm sai còn không nhận, thứ trẻ nít như đệ thì biết trong mộ này có gì? Biết bùa đó phong ấn gì? Biết như thế nào là đã mất phong ấn yêu ma thoát ra ngoài mà vào thị sát? Mà dù có thấy được thế sao không về báo ngay? Giờ sự việc rõ mười mươi lại mới nói thế?”
Hạ nhất thời tình ngay lý gian, chẳng biết nói năng thế nào, đành nhìn thầy Đại Trí mà cầu cứu van lơn…
Thầy dịu giọng hỏi Hạ:
“Con biết được yêu ma thoát ra ngoài sao? Con biết trong này giữ yêu ma gì? Do ai nói mà con biết? Bùa chú vẫn còn rành rành đó con mới xé ra xong, con có lời nào nói cho thầy tin được chăng?”
Hạ vội phân trần:
“Chính thần giữ mộ là Kim sa Vương và các vong phật tử ở địa thanh giới này nói cho con hay mộ này là của nữ pháp sư tên là Thanh Trúc Kinh Tâm, do nữ pháp sư bị ma nhập chưa thoát ra nên vẫn buộc phải trấn yểm cả người cả ma vào trong mộ này, còn việc yêu ma đã thoát ra thì con có thể biết được, con cảm nhận được trong này không còn chút tà khí nào, nhìn vào bùa thì thấy chẳng có pháp lực gì, nên biết ngay là bùa ban đầu thì đã bị gỡ vứt đi đâu rồi, sau đó mới có người dính các đạo bùa giả kia lên để che đậy hành vi mờ ám…”
Nhất Nguyên lớn giọng nạt:
“Ngươi nói thì hay lắm, ngươi có bằng chứng gì không? Chẳng lẽ tất cả chỉ nói là do cảm nhận của ngươi là xong?”
Hạ tức khí định mở mắt lửa ra mà gọi các vong trong khu mộ lên làm bằng chứng, thì thầy Đại Trí đã gạt chuyện cãi nhau đi, đoạn nhìn thầy Nhất Nguyên nói:
“Thầy cũng ít khi ra đây, việc mộ phần cúng bái cho mộ này đều đã giao cho Nhất Nguyên từ lâu, nếu có chuyện như vậy sao Nhất Nguyên không hề biết?”
Hạ lớn tiếng nói ngay:
“Thần giữ mộ đã bị yêu mà kia khống chế để che giấu việc nó đã thoát ra ngoài, trừ kẻ gây án và con ra, không ai phát hiện ra điều này hết, hoặc là sư huynh pháp lực không đủ bị thần và ma che mắt, không nhìn được chân tướng của bùa giả, hoặc là chính huynh chủ mưu hoặc tòng phạm, nên mới cứ thế ngó lơ đi…”
Cả hai sư nghe Hạ nói thế cùng giật nảy mình…
Lúc này thầy mới quay sang sư Nhất Nguyên hỏi:
“Việc ở Địa thanh giới lâu nay đều giao cho con lo việc, có chuyện như em Diệu m nói thì chắc con phải nắm được chứ?”
Sư hoảng hốt quỳ ngay xuống chân thầy mà thưa:
“Dạ thưa thầy, con nào dám dối gian thầy, đúng là con chưa hề thấy có điểm gì lạ, ngày nào con cũng dọn nhang hương ở đây không thấy có gì hết, chỉ đến hôm nay thấy Diệu m tới gần khu này con mới thấy nghi đã báo ngay cho thầy, con theo thầy đã mười năm nay làm việc hành sự lúc nào cũng ngay thẳng không dối, lẽ nào thầy vì người ngoài mà nghi cả con?”
Thầy Đại Trí chẳng biết nói sao, trầm ngâm nét mặt.
Lúc này Hạ nghe nói hai chữ “người ngoài”, tự ái bỗng nổi lên, khẳng khái mà trả lời ngay:
“Thưa thầy, giờ tình ngay lý gian, con đi vào mộ cấm, đôi tay này lại đã bóc gỡ bùa ai cũng nhìn thấy, vậy chẳng còn lời nào mà nói. Con ở đây cũng chẳng tiện nữa, vậy xin thầy cho ngủ lại đêm nay mai con sẽ đi sớm.”
Thầy mới khoát tay mà rằng:
“Chớ có nói năng hồ đồ, thân con nít thế cô không nhà, ra khỏi chùa này thì con đi đâu, việc thì cứ từ từ thầy tìm hiểu, nếu Diệu m nói đúng thì vẫn có thể Nhất Nguyên không biết việc, chỉ là tội tắc trách cũng chẳng đáng lo gì, còn nếu em nó nói sai ta cũng chỉ xem như trẻ con hiếu động, Phật gia đã dạy, “việc lớn hóa nhỏ, việc nhỏ thành không”, các con đừng vì thế mà làm mất tình huynh đệ.”
Nói rồi đỡ sư Nhất Nguyên dậy, lại nắm lấy tay Hạ mà dắt cả hai trò vào chùa.
Thật là,
Bậc đại giác cao cả
Trí tuệ tột hư không
Từ bi trùm pháp giới
Mới cũ cũng tương đồng.
Hạ đêm đó vẫn thấp thỏm không yên, về đến phòng vẫn thấy có vài sư đang đứng nơi cửa sổ mà nhìn ngó vào mới nghĩ thầm hoài nghi trong lòng…
Thế là hỏng, nó còn cho người theo dõi… đất này chẳng ở lâu được, sớm muộn cũng sinh chuyện….
Thấy Hạ về phòng thì các sư kia giả tảng đi hết.
Hạ vào phòng thì gói ghém hết hành lý lại ngay, cũng chẳng có gì nhiều nhặn, chỉ vài bô quần áo cộc và ít vật dụng cá nhân, lá bùa Địa âm tự mật chú thì gói chặt cất vào nơi ngực, thế là chỉ vỏn vẹn một tay nải, ra cửa còn nhìn quanh quất mãi, chắc rằng không có ai thì xách hành lý qua phòng Phương.
Phương lúc này đang say ngủ, nghe Hạ gọi thì giật mình tỉnh dậy còn lơ mơ chưa hiểu gì, Hạ chờ bạn tỉnh ngủ hẳn rồi mới nắm lấy tay mà thì thầm kể hết lại mọi chuyện vừa xảy ra ở nơi mộ thiêng. Đoạn dặn nhỏ Phương:
“Đêm nay anh phải đi thôi, đất này chẳng dung được anh, trong tăng đoàn này người hiểu đạo chỉ có thầy ta và anh Nhất Quang, còn lại đều là phường vô tri chẳng đáng luận bàn, riêng có Nhất Nguyên chú nhớ để ý cho kĩ, anh thấy nó suy nghĩ hẹp hòi, hành vi khả nghi, bụng gì thì không rõ nhưng chẳng phải người ngay, chú lúc nào cũng thật thà thấy ai cũng nghĩ người ta tốt như mình dễ bị chịu thiệt.”
Phương nghe thế hốt hoảng nắm lấy tay bạn chẳng cho rời đi.
Hạ nói tiếp:
“Trong chùa có điểm lạ, chú thì tuy thông minh sẵn có nhưng lại lười đọc nên không biết, nghe anh nói đây này, cứ chịu khó lên thư viện chùa đọc sách sẽ ngộ ra nhiều điều, kinh tạng Đại thừa đều nói đủ cả chẳng thiếu điều gì, căn cơ sâu dày như chú đọc sách nhanh gấp năm mười lần kẻ khác, cái gì bí quá hãy hỏi chứ đừng hơi tý việc là hỏi tới thầy, anh có đọc lịch sử của chùa biết rằng chùa này được lập ra dưới thời nhà Trần, do Hưng đạo Vương Trần quốc Tuấn lập ra, sau chùa có ngôi mộ lạ hôm nay biết được thì là chùa này lập ra là theo họ của người trong mộ đó, cả chùa chính là một phép trấn yểm cực mạnh Hưng đạo Vương lập ra để trấn lên mộ đó, con rắn có nói với anh kẻ thao túng nó chính tên là Kinh Tâm, người trong mộ cũng tên Kinh Tâm, chú bị nó nhập vào cũng là ở chùa này, đó chẳng phải là điểm ngẫu nhiên mà mộ đó rất có thể là sào huyệt của nó, hiện giờ nó không vào được chùa thì cũng chỉ quanh quẩn nơi mộ đó thôi, chú phải tìm hiểu điều tra cho kĩ, biết mình biết ta thì mới thắng được nó, và nhớ âm thầm đừng vội tiết lộ ra, anh không tin sư Nhất Nguyên nên chú cũng phải đề phòng người ấy, vì hắn quản mộ đó lâu nay, thần coi mộ cũng che giấu việc ấy thì hắn chẳng lẽ lại không? Sự tình bên trong thế nào thì chưa thể kết luận nhưng nhớ hết sức chú ý lấy lời anh mà đề phòng kẻ gian, thậm chí anh còn nghi chính hắn là kẻ thả cho yêu quái ra hại chú, đứng sau chuyện này…”
Qua những lời nói ấy vậy mới thấy Hạ rất siêng đọc sách, lại biết trầm tư suy nghĩ.
Thế nhưng Phương nào có nghe được hết lời bạn nói, tâm trí rối loạn chỉ cứ mãi lo cho bạn. Lúc ấy nắm tay bạn hỏi:
“Nhưng đi khỏi đây chú biết đi đâu?”
Hạ khẳng khái đáp:
“Nam nhi bốn biển là nhà chú chớ có lo cho anh, hơn nữa anh đã có chốn đi về.”
Nói đoạn lại kể lại một lượt việc đạo sĩ Huyền n tới viếng mẹ mình đêm ấy, có dắt tay ra nói chuyện riêng, dặn dò cho cách để tìm, rồi còn dặn thêm nếu khi không có chỗ đi thì cứ tìm sẽ cho đi theo.
Phương lại hỏi:
“Thế khi có việc cần bàn thì biết tìm chú thế nào?”
Hạ đáp:
“Đừng có lo, con dấu của thầy Đại Trí còn đây, anh ra vào chùa khi nào chẳng được, sư sãi quỷ thần đều chẳng dám cản, hơn nữa anh vẫn còn là đệ tử ở đây, có chứng tam bảo đàng hoàng thì kẻ nào làm gì được? Cứ tuần anh đến thăm chú đôi lần.”
Nói đoạn còn nắm tay bạn dặn dò thêm hồi lâu, Phương cứ quyến luyến mãi chẳng rời. Mãi lúc sau chẳng còn gì dặn, Hạ mới đứng dậy chào, Phương biết Hạ muốn qua tâm sự với thầy, liền lẳng lặng đi ra cổng chùa chờ tiễn bạn…
Thế rồi Hạ lại xách tay nải hành lý đi tới phòng trụ trì. Thầy Đại Trí khi này mới lơ mơ chìm vào giấc, nghe Hạ gọi thì dậy ngay. Hạ mới quỳ xuống đầu giường thầy, lạy thầy hai lạy rồi nói:
“Thưa thầy, ơn tri ngộ, cưu mang, dạy dỗ của thầy cả đời này trò cũng chẳng quên, nay nhờ thầy công phu, tri thức con đã có đủ, có bước ra đời cũng chẳng lo sợ gì.”
Thầy nắm lấy tay mà can:
“Con ơi con không phải ngại ngần gì, con cứ ở lại đây với ta, có ta ở đây sao con phải đi?”
Hạ bấy giờ nước mắt tràn mi mà nói:
“Thưa thầy con biết là thầy thương, nhưng mà đại sư huynh đã không dung con, chúng huynh đệ trong chùa thì đều nghe theo hiệu lệnh của huynh ấy, mà tính con nóng nảy lỗ mãng sợ không sớm thì muộn cũng gây chuyện xích mích, lại ảnh hưởng đến sự hòa hợp của tăng đoàn, thì phạm phải đại kị của pháp môn ta, khi ấy lại phải phiền thầy đứng ra phân giải, vậy thôi con cứ nên đi là hay hơn.”
Thầy Đại Trí biết ý Hạ đã quyết nên thở dài không đáp gì, đoạn trèo xuống giường đi đến bên tủ mở tủ riêng ra, lấy ra một xấp tiền trao cho rồi nói:
“Thầy thì chẳng có của để dành, đây là ít tiền Phật tử Bố thí cho thầy định hôm sau mang đi trại trẻ mồ côi quyên góp, nay con như thế thì cứ cầm tạm phòng thân nhé.”
Trao cho Hạ rồi, thầy lại lấy ra một cuốn sách cũ, gáy đã long, không có bìa, giấy đã ngả vàng ố, đưa tận tay rồi ân cần nói:
“Trong sách này bí kíp trùng trùng, từ các cách thức nghi lễ, thuật chú âm dương, mật tông, đạo thiền đều ghi chép đủ, đặc biệt trong này có ghi rất rõ về thuật xuất hồn, là thuật gần như tối thượng của người huyền nhân, đã truyền cho thầy từ đời trụ trì trước, biết con ham đọc sách, lại là người ngay, căn cơ sâu bền, nay giao lại cho con sử dụng, nhớ dựa vào sách này mà tu con nhé.”
Hạ giật mình từ chối:
“Sách hay như thế thầy để truyền cho trụ trì sau…hoặc không thì đưa Phương nó đọc.”
Thầy cười đáp:
‘Có căn cơ mới xem được sách này, đối với Diệu Thiện thì căn cơ nó đã vượt nhập tàng, kiến tri thức trong sách này không sớm thì muộn nó cũng nhập được hết, không bằng phương tiện này thì bằng phương tiện khác con chớ có lo, hơn nữa nó tinh thần mỏng manh yếu đuối, trong sách này lại có một số điều ghi về các cấm thuật mạnh, đòi hỏi người luyện phải vững chí như bàn thạch, nếu không thì nghiệp quật chết ngay, do vậy không hợp cho dùng…”
Nói vậy Hạ mới nhận lấy, rồi thầy trò ôm nhau, bịn rịn mãi, thầy cứ dặn đi dặn lại tuần nào cũng phải về cho thầy biết tình hình, nếu cuộc sống bên ngoài khó khăn, hoặc là thầy nhìn thấy hình dung tiều tụy, là thấy bắt về chùa ngay. Hạ cảm động rơi nước mắt, ôm thầy lần cuối rồi đi. Thầy muốn tiễn thì Hạ nói đang có Phương đợi, thầy mới thôi.
…
Phương và Hạ sánh bước cùng nhau ra tới cổng chùa, tới đây Hạ bỏ hành lý tay nải ra, cúi xuống trước tượng Quan âm Bồ tát ở cổng chùa mà lạy đủ ba lạy, xong xuôi đứng lên, rồi Phương tiễn Hạ ra cổng chùa.
Bóng Hạ bước đi trải dài trên con đường, đầu mắt đều hướng thẳng, vai khoác tay nải, dáng đi thẳng bước… Phương nhìn mà lòng bồi hồi xao xuyến, chẳng hiểu vì sao cậu cứ có cảm giác bất an, đây là lần cuối cùng cậu còn được nhìn thấy bóng dáng người ấy, kể cả sau này có gặp lại, thì người ấy cũng không còn là người như bây giờ, là Hạ mà cậu từng quen biết…
Lúc này bất chợt trời đổ mua, những hạt mưa ban đầu thoảng nhẹ, về sau đổ lên rất dày, rất to, nhưng lạ kì chưa, Hạ cứ thế bước đi thẳng chẳng thèm trú vào đâu, nước mưa thấm ướt hết cả áo lam của Phương thì chắc hành lý của Hạ cũng đã ướt hết, vậy mà vẫn chẳng thèm đoái hoài gì cứ thế bước đi thẳng.
Thật là,
Trong đêm mưa, rời chùa lặng lẽ
Nghĩa thầy bạn, mãi mãi chẳng quên.