31.
Lại nói đêm ấy, ngay lúc Hạ vừa đi khỏi chùa Nhất Nguyên liền theo lối cửa sau mà lẻn ra nơi mộ Kinh Tâm, thì chợt thấy có bóng quỷ bay về mộ, nơi mộ lúc này có sư Nhất Nguyên, thần Kim sa Vương và các vong phật tử khu Địa thanh giới.
Các vong Phật tử và các linh thú trấn yểm lúc này đang mải vui đùa, thấy bóng quỷ Kinh Tâm con nào con nấy hoảng sợ quỳ rạp cả xuống.
Kinh Tâm nhìn chúng hỏi:
“Ban nãy kẻ kia nói ra những lời gì? Hỏi các ngươi những gì? Và các ngươi đã nói gì cho nó?”
Các vong ma trong khu Địa Thanh giới tái mét mặt, run cầm cập quỳ xuống đất chẳng dám ngẩng lên, cùng đồng thanh mà nói:
“Việc huyền của phu nhân chúng tôi nào dám tiết lậu nửa câu.”
Bấy giờ Nhất Nguyên liền nói:
“Thưa Phu nhân, mưu phu nhân đã thành, Diệu m đã đi khỏi chùa rồi.”
Kinh Tâm đáp:
“Nó cũng là Huyền nhân U ẩn* có căn Bồ tát địa tạng, nếu nó còn ở bên vật tế kia thì việc ta hỏng mất, giờ nó đi rồi chỉ còn Đại Trí ta sẽ có mưu mà trừ đi, không dấu vết gì cũng không ai biết được, rồi lúc đó chùa sẽ về tay ngươi cả, giờ cho ngươi lui về chùa đi tránh Đại Trí sinh nghi.”
(*Huyền nhân U ẩn: thường có căn rất mạnh mẽ hơn Huyền nhân bình thường.)
Sư ngập ngừng như định nói gì, nhưng thôi không nói nữa, cúi lạy rồi ra về.
Khi sư đi khỏi Kinh Tâm mới quay sang Kim sa Vương mà nói:
“Sao mày để nó vào trong mộ, làm hỏng việc đạo của tao?”
Kim sa Vương phân trần:
“Nó có bùa của Bồ tát, lại có mắt Thiên nhãn thông, tôi không giấu được cũng không cản được nó.”
Bỗng nhiên thấy ánh sáng rực cả cõi Địa thanh giới, từ tay Kinh Tâm hiện ra một cánh tay nắm lấy một sợi xích màu vàng sáng rất rõ, từ đầu kia của sợi xích hiện ra một vị tướng quỷ cao tầm hai mét, mặt đỏ lừ, lông tóc đen nhánh dựng đứng, răng nanh trên và dưới đâm ngược khỏi miệng, hai mắt xếch lên không có lông mày, tròng mắt đều màu đen con người là một chấm đỏ, quỷ đó thân người, toàn thân đỏ rực, hai chân mỗi chân sáu ngón, năm ngón hướng ra trước một ngón quặp về sau cắm sâu xuống nền đất, quỷ quấn quanh mình chiếc giáp chỉ che hạ bộ, giáp màu đen, có hoa văn như mái ngói đỏ, thân trên để trần, quỷ lại có đến sáu cánh tay, cầm lần lượt sáu món đồ sau: búa, rìu, ngọc dạ minh châu, kiếm, hồ lô, dây xích. trông thập phần hùng vĩ.
Thật là,
Ngự ở cõi A-tu-la
Quanh năm đầy lạnh giá
Đến trời cũng đòi phá
Tam giới cũng chẳng tha.
Quỷ đó hét lớn:
“Tao là A-tu-la* ở cõi A-tu-la đây.”
(*A-tu-la: một trong Bát bộ chúng, rất thích đâm chém tranh đấu, cứ gặp ai cũng giết chẳng cần biết đúng sai.)
Kim sa Vương còn chưa hiểu gì đã thấy A-tu-la lao đến, tay cầm rìu bổ xuống, Kim sa Vương vung kiếm lên đỡ, thì tay khác của A-tu-la cầm búa đã bổ một nhát chí mạng vào đầu.
Thần hét lên một tiếng thảm thiết rồi hồn hóa thành đám mây vàng bay lên, tay khác của A-tu-la liền mở ngay nắp hồ lô, tức thì bao nhiêu mây vàng bị hút vào đó cả, rồi đóng nắp hồ lồ lại, quỳ xuống cúi đầu trước bóng Kinh Tâm, rồi dần tan đi…
Các vong Phật tử và các linh thú nãy giờ vẫn quỳ sát đất, chẳng dám ngẩng lên, thấy cảnh A-tu-la theo lệnh phu nhân mà giết thần thì hồn bay phách lạc cả, muốn chạy trốn nhưng sợ chỉ nhấc chân lên là nát hồn, không ngờ ngay trong nơi Địa Thanh giới của nhà chùa, là nơi tưởng như an toàn nhất, mà lại phải chịu sự sợ hãi lớn lao đến vậy…
Phu nhân nhìn chúng nó bằng nửa con mắt, đoạn chẳng thèm nói gì, tan vào trong mộ, bấy giờ chúng mới dám cử động, chẳng con nào dám nói to, chỉ dám động thật khẽ, bấm nhau tan đi ai về mộ nấy cả…
…
Từ ngày Hạ trúng mưu li gián mà đi khỏi chùa, Phương buồn lắm, cứ thường thơ thẩn một mình nơi chùa, một hôm đang đi dạo trong khuôn viên chợt có tiếng gọi:
“Sư đệ, có muốn đi dạo một vòng không?”
Phương quay lại nhìn hóa ra là thầy Nhất Nguyên.
Phương tươi cười chào thầy, khẽ gật đầu. Thế là hai huynh đệ đi dạo quanh sân chùa dưới trời trăng.
Nhất Nguyên liền mở lời:
“Đệ thấy chùa này thế nào? Có to đẹp không? Ngày trước thầy mình định để chùa cho tôi quản lý, đệ xem sức tôi có làm được không? Tôi thấy đệ tính tình cao thượng lại không xem trọng oai danh vật chất, căn cơ lại sâu bền hơn chúng tôi, chúng tôi cũng không tị gì cả, nên nếu có việc sau, chúng tôi muốn kiến nghị với thầy để cậu quản chùa cậu thấy ra sao?”
Phương không biết là sư đang nói thử, liền giật mình kinh hãi, bước hụt một nhịp rồi dứt khoát nói:
“Anh cả cứ đùa, em nào dám thế.”
Sư thầm nghĩ trong đầu, vậy là hắn chẳng có tính “tham”…
Sư lại nói:
“Đệ cũng biết Diệu m rất giỏi việc, đọc kinh sách nhớ rất lâu, trí tuệ nó lại thâm nhập địa tàng, chúng huynh đây đồng tu đã lâu không ai sánh được như nó, hai đứa là bạn đồng tu nhưng thấy hình như thầy có vẻ quý nó hơn đệ.”
Tính Phương vốn ngay thẳng thật thà, nghe nói vậy thì cười mừng hớn hở nói:
“Vậy là đúng lắm, Hạ từ nhỏ đã thông minh sáng dạ, ai ai cũng quý mến, em yêu Hạ lắm.”
Sư lại thầm nghĩ, vậy hắn cũng chẳng có tính “mạn*”
(*Mạn: một trong sáu điều ác, gọi là Ác lục kiến. Gồm có, 1-tham, 2-sân, 3-si; 4-mạn, 5-nghi, 6-kiến.)
Sư lại hỏi:
“Phường Cư sĩ toàn xem đẹ là trẻ nít mà thường thiếu tôn trọng lắm.”
Phương đáp:
“Họ đều là người lớn tuổi, chẳng tránh khỏi cố chấp tuổi già, ta đều hiểu đạo không nên chấp.”
Sư lại hỏi:
“Vậy với thiện nam tín nữ trẻ tuổi ban nãy làm khó dễ thì sao?”
Phương nói:
“Họ lại chỉ là chúng sinh chẳng hiểu mệnh, hiểu nghiệp, hà tất ta đôi co.”
Sư trong lòng thầm khen, vậy là hắn không có “kiến”.
Sư lại hỏi:
“Đệ có nghĩ Diệu m đôi khi ganh tỵ với đệ không? Ai ai cũng biết đệ có thượng căn Bồ tát, chẳng cần học hành nhiều mà vẫn ngang với nó trong khi nó nỗ lực đọc sách vở ngày đêm?”
Phương cười nói:
“Đối với em thì nó không bao giờ có lòng khác.”
Sư gật đầu tán thán, hắn cũng chẳng có tính “nghi”.
Sư giả bộ hỏi lơ sang những chuyện khác, nói chuyện bâng quơ rồi đột nhiên hỏi gấp:
“Đệ có thù ghét vong quỷ kia không?”
Phương dừng bước, lặng im suy nghĩ.
Sư biết đã hỏi vào trọng tâm, liền dò nét mặt Phương rồi hỏi thêm câu nữa:
“Nó hại đệ dối đệ chẳng ít lần, giết người đệ yêu, thậm chí đến nỗi giờ đệ phải bỏ mẹ già mà lên chùa nương thân, cả việc sinh hoạt công việc cuộc sống yêu đương cũng đều bị ảnh hưởng, ta thương cho đệ mà lại càng căm tức nó muôn lần…”
Phương ngập ngừng giây lát rồi nói:
“Em không biết nữa, em chỉ thấy nó rất đáng thương, có lúc em ghét giận nó lắm, từ lúc biết nó ra lệnh cho rồng kia giết chị Hương rồi hại mẹ con Hạ, là em cũng oán nó nhiều, nhưng có lúc em lại thấy thương hại, một mảnh xác cũng chẳng có mà phải nương thân người, nghi lễ nó muốn làm chắc có lẽ chỉ là lễ chiếm xác của em thôi chứ chẳng có gì khác…nó không có thân để mà hành động, nên mới phải sai rồng sông Hạc làm thay, lúc nào cũng chỉ lén lút trong tâm thức người ta… như thế chẳng đáng thương lắm sao?”
Sư thở dài khẽ một tiếng, lần này thì toàn phục, căn đạo của đứa bé này vượt hơn sư cả trăm ngàn lần đến cả tính “sân” nó cũng không có.
Thực sự căn cơ kẻ này quá lớn, nếu tu tập lâu dài thì thầy Đại Trí cũng chẳng sánh bằng…
Nói đoạn hai huynh đệ đi lòng vòng thêm một quãng, rồi Nhất Nguyên nói em vào ngủ. Phương nghe lời huynh trưởng đi về phòng.
Lúc này còn lại một mình, Nhất Nguyên mới lẳng lặng đi ra cổng sau chùa…rón rén đi tới trước một ngôi mộ lạ ngay lối cổng sau của chùa. Khi đứng trước mộ, đột nhiên một giọng nói lạ, lời nói say mê quyến luyến lòng người, sư nghe như thể muôn ngàn mật ngọt chảy vào tai, là giọng hỏi của Kinh Tâm:
“Việc thế nào rồi?”
Sư đáp:
“Ngũ giới* nó không phạm, Ngũ uẩn* nó át được, Lục thức nó học được phép khống chế được cả, đến cả Ác lục kiến là thứ mạnh mẽ nhất nó cũng không có đến năm điều, thực sự là bậc chân tu không có điểm yếu, so với nó tôi đây chỉ là ngọn cỏ ven đường.”
Quỷ nữ Kinh Tâm lại hỏi:
“Năm điều? còn một điều là gì?”
Sư chợt thấy lạnh hết người, liền đáp vội:
“Chỉ còn tính “si” chưa biết có hay không, nhưng người thương của nó đã chết, không kiểm tra được nữa…”
Quỷ Kinh Tâm nói:
“Giờ thằng Diệu m đi rồi, chẳng còn ai can ngăn, Diệu Thiện dễ bị u mê, thầy tìm cách làm nó si mê đi thì việc ta sẽ thành…”
Rồi một luồng gió lạnh ào qua, Kinh Tâm truyền lệnh cho sư xong thì chẳng nói chẳng rằng, tan vào trong mộ, không khí thanh vắng trở lại.
Sư rùng mình, vội vã trở vào trong chùa.
Thật là,
Đấu quỷ thần, phu nhân dùng phép
Chống người trí, nữ quỷ dùng mưu.