6.
Sáng hôm sau, Phương dậy sớm đứng ra trước cửa nhà tập mấy động tác thể dục tay không thường ngày, nhưng đầu óc không tập trung được, mắt cậu cứ thi thoảng lại trực liếc nhìn về phía cây si…những mảnh bùa đỏ đã không còn ở đó, có lẽ người dọn vệ sinh sáng đã dọn đi rồi…
Phương chuẩn bị xong xuôi thì ngồi chờ Hạ tới…
…
Hạ cùng tuổi, chơi với Phương kể từ khi cả hai bắt đầu cùng đi học, đến giờ đã được mười ba năm.
Sáng nào cũng như sáng nào, chỉ trừ những ngày mưa, còn thì dù nắng hay rét, Hạ cũng đều qua gọi Phương lúc năm giờ sáng, rồi cả hai thằng sẽ đi lang thang khắp thành phố để lượm ve chai, nhặt đinh sắt vỏ lon bán lấy tiền, từ ngày còn đi học đã luôn như thế, giờ cùng tốt nghiệp, cả hai thằng đều không học lên đại học, Phương thì trông quán cà phê cho người ta, còn Hạ thì lông bông suốt ngày, làm những công việc vớ vẩn ai mướn thì làm, nhưng riêng việc buổi sáng cùng nhau đi nhặt ve chai thì đã thành thói quen tất yếu không có gì thay đổi.
Nhà Phương ở khu 836, còn nhà Hạ bên khu Bắc. Hai khu ngăn cách nhau bởi một con sông Hạc, sông này rất sâu, tầm hai mét, mùa mưa có khi nước dâng sâu tới hơn ba mét. Qua sông có hai cách, thứ nhất là đi theo trục đường chính, an toàn nhưng lâu, còn nếu muốn đi nhanh thì chọn cách thứ hai là đi tắt qua một cây cầu đường sắt được dựng lên để đường sắt chạy qua, gọi là cầu Đen. Cầu đó dài cỡ mười lăm mét, rất hẹp, mỗi khi có tàu hỏa đi qua thì người đi trên cầu phải nép vào lối nhỏ xếp bằng bê tông sát ngay bên trái của cầu, còn người đã đi qua cầu đang dọc trên con đường sắt phải nhảy sang hai bên bụi rậm để tránh tàu, nhiều khi khoảng cách rất sát chỉ cỡ nửa mét là tới tàu. Ở cây cầu đường sắt này cũng đã xảy ra nhiều vụ chết người liên quan đến tàu hỏa và sông nước, trẻ con trong vùng tắm ở sông Hạc dưới chân cầu bị chết đuối cũng nhiều, mà người lớn đi trên đoạn đường sắt băng từ bên này qua bên kia cầu bị tàu hỏa cán chết cũng nhiều, lại còn có những người tự sát, họ chẳng đi đâu xa mà cứ tới cây cầu, nhảy xuống dòng nước siết, hoặc là nằm ngang người trên cầu để tàu cán ngang qua.
Thật là,
Đìu hiu một cõi vắng
Độc một chiếc cầu ma
Sóng gầm gào chảy xiết
Chẳng biết có yêu tà?
Những gia đình ở cả hai khu thường cấm trẻ con đi theo đường cầu Đen, mà bắt bọn trẻ nếu muốn đi từ khu này sang khu bên kia phải đi ra đường chính, tuy có xa hơn gấp đôi nhưng lại an toàn hơn. Tuy nhiên Phương và Hạ đều chọn cách đi bằng đường cầu Đen để qua nhà nhau cho tiện, bởi lẽ chúng chẳng sợ sự nguy hiểm khi đi cầu ấy. Lớn lên từ nhỏ đều xuất thân bần hàn, bố mẹ chúng đều đã quá vất vả với miếng cơm manh áo hàng ngày nên từ nhỏ đã vứt cho chúng thoải mái tự do bay nhảy, do vậy chúng cũng có sự dạn dày, tự tin, can đảm hơn những bạn bè khác.
…
Đến giờ hẹn thì Hạ tới, cả hai sánh bước bên nhau mà đi dạo sáng…
Hạ hỏi chuyện bâng quơ, Phương cũng cười theo cho có lệ nhưng trong lòng thì đang thấp thỏm không yên, Phương muốn kể Hạ nghe về chuyện ở chùa và giấc mộng hôm qua, nhưng lại sợ bạn cười chê mình nói phét, nên Phương cứ lần lữa mãi.
Cậu kín đáo liếc mắt sang Hạ…
…
Hạ cao một mét tám, dáng người cân đối, mặt rất hiền hòa, tóc nó hơi xoăn nhẹ, trông Hạ khôi ngô xinh đẹp lắm.
Hạ là một chàng trai nhanh nhẹn và thông minh, luôn nghĩ ra cái này cái khác, từ những lần cả hai cùng nhau đi leo núi, tập võ, hay bất cứ cái gì hay ho hồi còn đi học, đều do Hạ khởi xướng và duy trì cả. Không biết từ khi nào, Phương đã xem Hạ như một biểu tượng của lòng dũng cảm, một chỗ dựa tinh thần lớn lao mỗi khi có chuyện gì xảy ra. Hạ lại còn rất siêng năng, chăm chỉ, tính cách hiền hòa, vô tư, phóng khoáng… Khi ở bên cạnh Hạ, Phương cảm thấy rất yên tâm, cậu có cảm giác tất cả mọi chuyện trên đời đều không thể làm khó Hạ được
…
Phương rất ngần ngại, cậu suy nghĩ lung lắm… nhưng rồi cậu cũng quyết tâm phải nói ra, dù đêm qua chỉ là giấc mộng nhưng nó lại chân thực đến không ngờ, lại thêm những điều sư đã nói thì càng phải lo ngại….
Vậy là Phương kể lại tất cả mọi chuyện hôm qua đã xảy ra cho bạn, từ khi cậu thấy hiện tượng lạ ở chùa cho tới hết cơn ác mộng tối qua.
Hạ lắng nghe Phương kể các sự kiện và nói các suy nghĩ của mình một cách chăm chú, không hề có một câu cắt ngang, không hề có một nụ cười mỉa. Trái ngược với điều Phương nghĩ, Hạ hoàn toàn không cười chê gì, mà xem đây là chuyện rất nghiêm túc…
Phương kể xong rồi nhìn Hạ dò ý nhưng nó chẳng nói gì, im lặng một lúc lâu Hạ mới nói:
“Theo như chú nói thì vong ma đó đã bị lá bùa diệt còn gì? Vậy thì có gì mà lo nữa?”
Phương nói:
“Anh sợ việc chẳng dễ như thế…bùa này là sư thầy lấy của cô gái kia mà đưa cho anh, nếu thật diệt vong dễ thế thì sao cô ta lại bị nó hành cả năm trời? Mà sư nơi chùa cũng bảo vong này là vong thần linh chứ không phải vong người bình thường, nó có dễ chết thế không?”
Hạ nói ngay:
“Vậy gọi cô ta hỏi thử xem sao, chứ cứ ngồi đây mà đoán mò thì có tác dụng gì?”
Thế là Phương nghe lời bạn, liền gọi điện cho Vy hỏi thử về giấc mộng đêm qua, thì mới biết hóa ra Vy đã mộng thấy nó suốt, đúng nó là một con quỷ rất lạ có mình người đầu chim, nhưng nó chỉ hiện ra mà nhìn Vy rồi biến mất chứ nó chẳng tấn công cô bao giờ, hay có lẽ vì thế nên nó mới chưa bị lá bùa Vy đeo giết đi?
Nhưng tại sao nó không bao giờ tấn công Vy? Nó lâu nay chỉ trú trong thân cô ta, đôi khi làm cô ta đau đầu, vậy mà chỉ mới nhập vào thân Phương ngay đêm đầu tiên, nó đã tấn công cậu ngay?
Mà thôi cũng chẳng còn quan trọng gì, dù sao nó cũng đã bị lá bùa diệt…
Nghĩ thế Phương cũng vững dạ hơn, lại có Hạ ra sức động viên, chính mắt cũng thấy nó bị diệt rồi, thì còn lo gì nữa…
…
Đêm xuống nằm nghĩ lại, Phương lại thấy lo lắng hơn.
Tại sao cậu lại nghe thấy giọng nói của nó trong khi Vy thì không?
Dù nó đã bị diệt nhưng Phương thấy bất an lắm…những điều đó còn chưa giải đáp được thì cậu vẫn cứ thấy thấp thỏm không yên…tính Phương xưa nay đã thế, tìm hiểu gì thì phải tìm hiểu cho rốt ráo ngọn ngành mới thôi…
Đang nghĩ lơ mơ, Phương lại thiếp đi lúc nào không hay.
Trong cơn mơ màng, Phương thấy có một vật gì rất nặng hoặc ai đè lên người mình cứng ngắc, rồi vật đó trói giữ hết tay chân, Phương không cựa quậy được, mắt cũng không mở ra nhìn được, toàn thân run lên, cảm giác tức ngực như muốn ngộp thở…
…Phương cố gắng hét to cầu cứu mẹ đang nằm bên cạnh nhưng không sao thốt ra hơi. Phương sợ hãi… Cậu có cảm giác mình đang trong một hòm gỗ kín bưng, tối đen, miệng bị bít kín, cậu cố vùng vẫy, cựa quậy, đạp tung ra mà không được.
Phương vẫn cảm nhận được nhịp thở đều của mẹ nằm bên cạnh…
Sau đó là im lặng bao trùm.
Thế rồi bỗng nắp hòm bật mở, ánh sáng rọi thẳng vào mặt Phương đến chói cả mắt, Phương muốn giơ tay ra che cho đỡ chói nhưng cố cỡ nào cũng không thể nhúc nhích được.
Bỗng dưng Phương thấy giá lạnh nơi bụng, có cái gì đang trườn thẳng qua người, siết chặt từ ống chân bên trái lên bụng rồi chồm lên giữa mặt Phương.
Nguyên là một con rắn màu xanh thẫm.
Rắt rít lên những tiếng kinh người, nghe kến đến xé tai lạnh óc, rắn đó quấn từ đùi lên mặt Phương rồi vắt ra ngoài hòm vẫn không thấy đuôi, trên đỉnh giữa hai mắt rắn có hai chấm màu trắng, mắt rắn màu vàng trong như màu bi, con ngươi màu đen tuyền, không nở tròn mà dạng kim, nằm thẳng đứng, hàm rắn bạnh ra, hai lỗ mũi co nở theo nhịp rít, lưỡi rắn màu đỏ, răng nanh màu trắng ngà, nhìn chung trông thập phần kinh dị.
Thật là,
Quỷ lại hóa Thanh xà
Chẳng nhìn rõ tâm ma
Tinh thông tài biến hóa
Vượt xa phép quỷ tà.
Con yêu xà lướt nhẹ xuống sát má Phương, lè lưỡi ra chọc vào tai Phương, rít lên ghê rợn. Phương lông tóc dựng đứng cả, tay chân bị nó quấn chặt không sao cựa quậy được, đành nằm im mặc nó hại.
Yêu xà rít lên thêm mấy tiếng, rồi cất ra thanh âm cao vút ghê rợn, nghe rất khác âm của con quỷ đêm qua…
Nó định nói gì đó nhưng bỗng dưng đầu ngỏng lên cao, bất giác lúc ấy Phương thấy nơi ngực nóng muốn phát điên, như thiêu như đốt, thân mình Phương thấy thả lỏng hẳn ra, nơi da thịt con rắn quấn vào vùng ngực Phương bỗng nhiên cháy rần rật, Phương kinh hãi nhìn xuống thấy ở ngực đang phát ra một đạo hào quang dạng lửa, rồi con rắn buông mình Phương ra, rít lên quằn quại, chỗ lửa vẫn cháy ngùn ngụt, từ vùng da đó lan dần khắp mình mẩy rắn. Rắn hóa thành làn khói xanh, bay vút lên tầng không…
Ngực Phương cũng không còn thấy sáng.
Vừa ngay lúc đó thì như choàng tỉnh khỏi cơn mê, Phương dụi mắt, ngồi bật dậy vặn vẹo tay chân để chắc chắn nó đã cử động bình thường. Bấy giờ nhìn lại toàn thân mới thấy mồ hôi vã ra như tắm.
Phương kín đáo cởi cúc áo kiểm tra lại chỗ lửa ban nãy, cậu bỗng nhìn thấy nơi da gần tim, nơi ngực bên trái có năm chấm rất lạ, có bốn chấm sáng vàng chói, một chấm thì tối đen, cậu bán tín bán nghi, cài cúc áo lại, bốn chấm kia vẫn còn sáng hằn lên xuyên qua áo, mãi lúc sau mới tan hết.
Chính là nó…
Nó vẫn chưa chết!
…
Chùa Thanh Trúc hôm nay tĩnh mịch không một bóng người, chỉ có những ngọn đèn vàng thắp hai bên cổng, có ba người cùng bước rất nhanh vào trong…
Ba người ấy là Phương, Vy và Hạ…
Chuyện Phương đêm đó lại tiếp tục mộng thấy con rắn làm cậu lo lắm, liền mang nói ngay với hai người kia. Vy là ngạc nhiên hơn cả, cô ta chưa nhìn thấy con rắn ấy bao giờ…rồi cả ba cùng hẹn nhau tới chùa Thanh Trúc gặp sư Đại Trí mà báo lại mọi việc cho sư hay…
Những bức tượng La Hán hai bên lối vào được đặt ở dọc sân chùa luôn làm Phương sợ hãi, ban đêm lại càng khiến cho chúng trở nên đáng sợ hơn, sao mà Phương cứ có cảm giác lúc nào các tượng cũng đang nhìn mình chòng chọc, da gà cứ thế mà nổi cả lên, nhờ đó mà Phương biết, vong vẫn còn đang ám lên người…
Bước vào gian Chính điện, ba người gặp một chú tiểu trẻ, Vy hỏi ngay:
“Chào chú, xin hỏi thầy ta đâu rồi?”
Chú tiểu này đã quen với Vy nên vừa nghe đã trả lời ngay:
“Chào cô Chân Mỹ, thầy đang đọc sách trong thư phòng ấy.”
Vy cười với chú ta, rồi ba người cùng đi qua chính điện tới thư phòng trụ trì. Vy vừa thấy thầy Đại Trí thì chắp tay nghiêng mình cung kính, Hạ và Phương cũng bắt chước cô, xá tay mà chào.
…
Thầy Đại Trí năm nay đã hơn bảy mươi, đầu trọc, trên đầu có khắc chấm trắng, nhưng lại nuôi một chòm râu dài rất đẹp, râu đã ngả bạc màu… Nước da thầy nhăn nheo nhưng mắt vẫn còn sáng, dáng đi rất thẳng , rất nhẹ, giọng thầy trầm ấm như tiếng chuông chùa.
Nghe kể lại rằng thời trẻ thầy cũng từng trải qua nhiều phong ba cuộc đời. Sinh ra ở một vùng quê nghèo tỉnh Bắc Giang, khi trưởng thành thầy nhập ngũ, lúc đó thầy tròn hai mươi tuổi, đi theo quân lực Việt Nam Cộng Hòa, vì thầy học giỏi nên được cử đi Mỹ học tập huấn luyện đặc biệt về tâm lý học quân sự, sau về nước được chính quyền ngụy quyền trọng dụng, làm dần tới chức giảng viên tâm lý chiến quân sự ở trường quân sự đặc biệt được Mỹ lập ra, đâu đó ở trong Sài Gòn, trong thời gian này thầy đã cưới một người vợ ở Sài Gòn. Đến khi đất nước thống nhất, thầy đã mang tới lon thiếu tá ngụy quyền. Tới khi chế độ về tay Đảng Cộng Sản, thầy không trốn chạy sang Mỹ mà ở lại chịu tội mình đã gây ra, để được tiếp tục sống ở mảnh đất quê hương. Chính quyền Cộng Sản khoan hồng tha thứ cho thầy, nhưng theo quy định, thầy buộc đi cải tạo chính trị hai năm. Hạn cải tạo kết thúc, coi như đã đền tội xứng đáng với những lỗi lầm đã gây ra, thầy được tự do cư trú và chịu sự quản lý của chính quyền địa phương. Sau khi hết thời gian quản lý cư trú tại địa Phương, vợ con cũng đã mất trong chiến tranh, chỉ còn một thân, thầy sang Trung quốc theo học Phật, rồi xuất gia, tu ở chùa Đông Lâm bên Trung Quốc, khi công đạo đã thành thì về nước, định thân ở Mao Sơn Tự, núi Mao sơn thuộc huyện Cẩm Giàng, tỉnh Tây Phước, lấy hiệu là Thích Đại Trí, tại đây thầy đã học các phép đạo, tu khổ luyện trên núi nhiều năm rồi hành đạo khắp nơi, trừ tà ma, chuyên về trục vong linh, cầu an, cầu siêu khắp nơi, làm phúc cho bách tính trăm họ. Uy thế của thầy ngày càng lớn, đạo hạnh công phu khổ luyện sâu dày, được Nhân dân Phật tử khắp nơi tin sùng, ngưỡng mộ đến tìm gặp rất nhiều. Những người được thầy cứu mạng, giúp trục vong, trừ tà, làm tế lễ lạt, cầu siêu cầu an, xem phong thủy nhiều khắp đất nước. Vang động tới cả chính quyền và giáo hội Phật giáo, sau này thầy được giáo hội Phật giáo cử đến làm trụ trì tại chùa Thanh Trúc, thành phố Nam thuận, tỉnh Nam thuận cho tới nay.
Thật là,
Phong ba cũng một kiếp người
Dầm sương dãi nắng loạn thời binh đao
Tâm hướng thiện Phật tính cao
Gặp duyên chuyển hóa nhập vào Phật môn.
…
Lại nói, thầy nhận ra Phương ngay lập tức. Hỏi han qua loa, giới thiệu tên họ xong thầy mời cả ba người qua phòng trà nói chuyện.
Phương đưa mắt quan sát phòng trà của chùa, cảnh đẹp, thanh tịnh mà đủ đầy:
Đèn hoa mắc xung quanh
Khói hương thơm ngào ngạt
Ban biện đỏ sắc xanh
Chân tượng đầy giấy bạc.
Sư pha trà thơm rót mời các tiểu thí chủ, rồi ân cần hỏi Vy trước tiên:
“Mấy ngày nay con ra sao?”
Vy cung kính đáp:
“Bạch thầy, y lời thầy nói, con chẳng còn đau đầu, vong quỷ đó đã rời đi hẳn.”
Thầy quay sang hỏi Phương:
“Còn con thấy ra sao?”
Không có tiếng trả lời.
Mọi người cùng thấy lạ nên nhìn sang Phương, cậu đang ngồi lặng thinh, mơ hồ như hồn đang nơi khác. Mắt nhìn trân trân vào hình con rắn xanh đang quấn trên thanh xà ngang của phòng trà, ngay trên đầu bức tượng Phật tổ…
Tượng Như Lai đặt dưới bệ thờ cao hơn một mét, trần nhà cao khoảng ba mét, thanh xà bắc ngang cách trần độ nửa mét. Tượng rắn xanh làm bằng thạch cao, quấn quanh thành xà dài vắt từ sát vách này sang vách bên kia của phòng, cỡ chừng bốn mét, đầu rắn phình to, lưỡi đang thè ra, dung mạo rắn y như con rắn Phương gặp trong mộng, kích thước cũng tựa như thế. Nhang khói trong gian phòng trà bốc lên quấn quanh tượng rắn, tạo ra vẻ lung linh kì dị.
Thật là,
Rắn trong gian thờ Tổ
Nào phải giống yêu ma
Thần theo hầu chư Phật
Tên: Ma-hầu-la-già*.
(*Ma-hầu-la-già: Một trong số tám chúng loài hữu tình, được gọi là Bát bộ chúng, gồm có: Trời, Rồng, Dạ xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già.)
Phương chỉ tay về tượng con rắn xanh mà hỏi sư:
“Sao nơi thờ Tổ Như Lai lại có tượng yêu ma?”
Thầy liền trỏ vào tượng rắn mà nói cho ba người trẻ nghe:
“Không phải yêu quái. Đó là thần rắn, là nòi Ma-hầu-la-già, thuộc về Bát bộ chúng, là thần đi theo hộ vệ cho chư Phật.”
Phương nghe nhắc tới Bát bộ, liền nhớ ngay tới lời con Khẩn-na-la nói hôm qua, nó cũng tự xưng nó thuộc hàng Bát bộ, thế là cậu nhân đó kể lại cho thầy nghe một lượt về hai giấc mơ liên tiếp hai đêm liền, rồi cậu hỏi thầy:
“Khẩn-na-la ấy là giống gì? Cả nó và con rắn xanh kia đều thuộc Bát bộ chúng, vậy Bát bộ chúng đó ra sao?”
Vậy là sư Đại Trí giảng giải cho các đệ tử về Bát bộ chúng, sơ lược như sau đây:
“Khẩn-na-la và rắn Ma-hầu-la-già là hai trong số tám loài hữu tình gọi chung là Bát bộ chúng. Bát bộ là những loài sống ngụ trên khắp các cõi, thiện có ác có cùng tồn tại như trong thế giới người, chúng đều có thế giới riêng, nhưng cảnh giới đều cao hơn người, nên cùng được gọi là quỷ thần, hình tướng nhiều loài mỗi loài mỗi khác, trong cùng một loài lại cũng khác nhau, trong Bát bộ, hoặc là đâm chém lẫn nhau, hoặc là dùng thần thông mà đi hại ám người, hoặc đi bắt giết yêu quỷ thành tinh, hoặc đi bắt vong ma hài nhi tùy theo từng loại, lại hoặc đi bắt giết đạo sĩ pháp sư dám phạm vào địa giới, hoặc đi bắt lấy hồn người phàm nhân để nuôi dưỡng linh thần, hoặc trở thành thần sông giao long, hoặc được lập miếu tự thờ ngưỡng, hoặc đi vất vưởng bắt ngạ quỷ cô hồn, hoặc đi khiêu chiến mà tự giết hại nhau, hoặc đi tu luyện trên núi thiêng chờ ngày đắc đạo…có một số con quy thuận đức Như Lai mà xuất gia quy y tam bảo, nhưng cũng có nhiều con trong tám chúng Bát bộ lưu lạc nơi nhân gian, hoặc nơi các cõi trời Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới, hoặc nơi âm ty địa phủ, hoặc nơi núi rừng, đền miếu linh thiêng, hoặc sống trong lòng sông hồ biển cả…”
Thầy lại dạy rằng:
“Ta đây học đạo đã lâu, tà ma trừ đi cũng không ít, nhưng thứ vong quỷ trong cơ thể ngươi chẳng phải vong ma bình thường, mà là vong của Bát bộ chúng, vậy chúng nó đều là quỷ thần, chẳng dễ gì mà trừ chúng nó…”
Mọi người trầm ngâm nhìn nhau, mỗi người đều theo đuổi suy nghĩ riêng…tại sao lại có hai con? Tại sao con này bị trừ rồi thì lại hiện ra con khác? Và có tất cả là bao nhiêu con đang ẩn nấp trong người Phương?
Bấy giờ Phương sực nhớ ra liền nói:
“Lá bùa hôm qua thầy giao cho để phòng thân đã bị nó hủy đi rồi, có nguy hại gì không? Giờ nếu vẫn còn nhiều con khác trú trong thân con, mà bùa đã bị hủy vậy con biết lấy gì mà bảo vệ?”
Vậy là thầy lại giảng cho ba người nghe về lá bùa được cất trong túi gấm đỏ, sơ lược như sau:
“Lá bùa đó có tên là Y lặc ma thiên chú, do tổ thứ ba mươi ba của thiền tông là phật hoàng Trần nhân Tông luyện ra rồi truyền đời, tới nay người luyện được bùa như thế đếm trên đầu ngón tay thôi, bùa ấy pháp sư cao tay ấn cũng mất sáu năm mới luyện ra một lá, một lá bùa đó chỉ đi theo một vong ma duy nhất, nhằm đánh dấu hình tướng của vong ấy, là phép do thám giúp pháp sư trừ được vong đi, lá bùa kia đã theo Chân Mỹ cả hơn năm trời, nên thấu tỏ hình tướng của Khẩn-na-la, do đó đêm nọ mới trừ được, hiện giờ còn những con Bát bộ nào đang trú trong người ngươi không thể biết được, có trao ngươi lá bùa khác thì cũng cả năm nữa nó lại mới có công hiệu.”
(*Y lặc ma thiên chú: bùa trừ yêu của pháp sư, mỗi bùa chỉ đi theo đánh dấu một vong linh nhằm giúp các pháp sư nhận biết được bản tướng của vong linh đó để tiện việc trừ.)
Bấy giờ Hạ mới cất tiếng hỏi:
“Bạch thầy, vong quỷ thần so với vong ma bình thường thì ra sao mà lại khó trừ như thế?”
Vậy là thầy tiếp tục giảng thêm cho họ về các loại vong hồn, sơ lược như sau:
“Vong ma cũng có nhiều loại, đa phần đều sợ hãi hèn yếu, mong được thí cho ăn, hoặc nhung nhớ người trần mà về nhũng nhiễu, loại này thì gặp các thầy cao tay, biết việc luân hồi thì dễ trừ, làm lễ Phật sự cho nó là được, lại có các vong mạnh mẽ hơn, thường là lính tráng nơi sa trường, hoặc là tướng quân chinh chiến, thì thường khi thác đi sẽ được phong thần, hoặc là những kẻ chết bị hàm oan quá sâu dày, hoặc khi sống tính khí hung ác hại người, khi chết đi hóa quỷ dữ nhập người, trả oán, hoặc là các loài thần linh, khi chết đi sẽ mang vong thần, loài này khi còn sống đã hùng mạnh vô cùng, thần thông biến hóa, chết đi thì suy yếu nhưng vẫn mạnh hơn các vong người rất nhiều. Thế nhưng đa phần các vong thường thì không có phép biến hóa, vong nào thì hình tướng ấy, do vậy mới có việc người chết đi như thế nào thì hình tướng khi về mộng như thế ấy, nay Phương mơ thấy hai lần mang hai hình tướng khác nhau như thế, thì là có hai vong quỷ thần cùng trú trong thân.”
Nghe tới đây Phương vội nói ngay:
“Hay vong linh này do không có ai cúng bái cho nó đúng theo nghi thức nên nó không đầu thai được, vậy hay có khi nào chỉ làm lễ cho nó là được yên thân không?”
Sư Đại Trí nói:
“Không được đâu con, vong ma hóa ra nhiều hình tướng mục đích là để lung lạc các thầy, vì mỗi loại vong yêu cô hồn lại có cách tế lễ trục ra khác nhau, ma nước làm lễ khác, ma đói làm lễ khác, quỷ hay yêu tinh lại có cách lễ khác, nếu không biết rõ nghi thức đó mà cứ nhắm mắt làm theo, sợ con bỏ mạng oan mà yêu thì không trừ được, lại giúp cho nó hại đời…Không xác định được nó là giống gì, lễ đó là lễ gì, thì nhất định không được làm theo kẻo thân chủ bị nguy.”
Hạ lại hỏi:
“Thưa thầy, ma quỷ chẳng vào được nơi cửa Phật môn, vậy sao vong này theo được Vy vào chùa, rồi lại nhảy sang Phương mà theo nó vào tận Ban mẫu?”
Sư Đại Trí giật mình nhìn lại Hạ kinh ngạc, trong lòng thầm khen người thiếu niên này tinh ý nhanh nhạy, bấy giờ mới thầm quan sát, thì thấy người này phát ra căn cơ sâu dày, đôi mắt sắc sảo tinh anh, thần trí toát ra bao trùm cả khuôn mặt, đoạn liền giải đáp:
“Lời con nói thì đúng, sao nó theo được Vy qua cổng chùa chính thầy đây cũng băn khoăn chẳng hiểu, còn nó theo Phương vào được Ban mẫu có lẽ do nó mới đổi vật chủ, tâm thức chưa tĩnh lặng hoàn toàn, tạm thời chưa nhận thức được cảnh giới xung quanh nên cứ đi bừa vào…”
Không ai nói gì thêm nữa…
Trong lòng Phương mông lung lắm, rất sợ…nó thậm chí còn có phép mà đi qua được cửa Phật môn…
Phương thở dài thườn thượt một tiếng thật não nề, tới mức làm cho không khí cả gian phòng trà như trầm xuống. Thầy Đại Trí lặng im không nói, tay cứ lần chuỗi tràng hạt, mắt nhắm lim dim mơ hồ.
Hạ thì mắt đảo láo liên, hết nhìn tượng Phật lại nhìn tượng rắn, rồi quan sát khắp phòng, xong lại dò nhìn nét mặt từng người…
Thật là,
Đạo một thước, ma cao muôn trượng
Phép quỷ sâu, thần chú cũng tan.