NGƯỜI GIỮ CỦA - CHƯƠNG 33
“Mày cũng khá đấy!” Bác hai nhìn tôi cười khỉnh, còn tôi cũng phối hợp ăn cắp phong cách của bác nhún vai biểu lộ chẳng có gì to tát cả. Nhưng thật ra lòng tôi đang mừng thầm tự nhủ lần này quả thật là có chút ăn may.
Bốn sợi dây xích to như cái bắp tay nối bốn đỉnh của chiếc quan tài từ từ trùng lại, chiếc quan tài cũng theo đó mà hạ thấp xuống. Tiếng ma sát của dây sắt và chiếc quan tài vang lên vô cùng chói tai. Có một điều vô cùng kỳ lạ là con mãng xà bên dưới không còn dùng cái đuôi của nó đập liên tục và cây trụ cột của cổ Đàn nữa.
Mặc kệ nó đang làm cái quái quỷ gì, tôi và bác hai vội vàng mau chóng nghiên cứu chiếc quan tài trước mắt đã, nếu không sẽ chẳng còn kịp nữa.
Sau khi những sợi dây xích kì ngừng ma sát lên quan tài thì cũng là lúc chiếc quan tài kia nhẹ nhàng tiếp đất, nằm ngay ngắn trước mặt hai bác cháu tôi. Lúc này đây tôi mới có thể quan sát thật kỹ cỗ quan tài này.
Chưa bao giờ tôi nhìn thấy một cỗ quan tài đẹp như vậy, chiếc quan tài màu vàng óng tỏa ra một mùi hương vô cùng dễ chịu, đây là mùi của gỗ Đàn Hương. Có vẻ như loại gỗ này rất được chuyên dụng thời đó vậy. Nói thẳng ra thì đây cũng là một loại gỗ vô cùng quý hiểm. Thời ngày nay nếu muốn mua được loại gỗ này thì ít nhất cũng phải đặt trước vài tháng. Thậm chí có nơi chỉ còn chợ đen bán, có chi một khoản tiền lớn cũng vô ích.
Tôi và bác hai đi lòng vòng quanh chiếc quan tài một lượt. Chiếc quan tài này nhỏ hơn chiếc quan tài đá trong hầm chứa quan tài công lý mà hai bác cháu tôi đã đi qua, tuy nhiên các đường nét hoa văn bên trên được điêu khắc tinh xảo hơn rất nhiều. Thậm chí tôi có thể nhận ra, bên trên những đường nét điêu khắc còn được dát một lớp vàng bên trên. Thật không thể tin được cái gã thủ lĩnh bộ tộc Can Chi kia lại là một kẻ xa hoa đến vậy.
Trên chiếc quan tài nét điêu khắc chính chủ yếu là khắc một loại hoa, không hề có hình rồng hay phượng như những kiểu thường thấy trên các quan tài giành cho vua chúa khác. Vốn nghĩ tên thủ lĩnh này là một kẻ tự cho mình là con của trời thì chắc chắn cũng sẽ tự cho mình là rồng hay phượng gì đó. Vậy mà chẳng thể tin được, nơi an nghỉ của chính mình ông ta lại trang trí toàn hoa.
“Hoa này bác có biết nó là hoa gì không?” Tôi hỏi bác hai. Ông bác bên cạnh tôi cũng không ngừng quan sát những đường nét trên quan tài.
“Hoa này có lẽ là một loài hoa tín ngưỡng của đám người này. Tao từng nghiên cứu qua bộ tộc này nhưng chưa hề biết đến loài hoa này.”
Vậy hoa này giống như quốc hoa của họ vậy, dù nhìn có chút quen mắt nhưng tôi cũng giống như bác hai chẳng thể hình dung ra đây là loại hoa gì, cũng có thể loài này đã tuyệt chủng rồi cũng nên.
“Chúng ta phải mở quan tài này ra sao bác?” Để cho chắc chắn tôi hỏi lại bác hai.
Bác hai lúc này đang đứng ở vị trí đầu chiếc quan tài và vô cùng tập trung vào những đường nét trên đó.
“Mày đưa chiếc nhẫn ngọc cho tao!” Bác hai vừa nói vừa đưa tay ra để đón lấy chiếc nhẫn từ tôi. Tôi không hiểu cho lắm nhưng cũng nhanh chóng tháo chiếc nhẫn trên tay ra đưa cho bác, sau đó thì vội vàng quan sát vị trí trên đầu chiếc quan tài.
Ở chính giữa cạnh ngắn của đầu chiếc quan tài nơi đó có một cái khe nhỏ vừa đủ để đặt chiếc nhẫn ngọc vào trong. Sau khi đặt nhẫn vào vị trí trên cái rãnh nhỏ đó, bác hai khẽ xoay nhẹ chiếc nhẫn theo chiều kim đồng hồ một góc một trăm tám mươi độ. Khi bàn tay của bác hai dừng lại thì cũng là lúc chiếc quan tài kia rung lên một hồi khiến hai bác cháu tôi giật mình lùi lại phía sau vài bước. Lúc này đây ở trên chính giữa đỉnh nắp quan tài trồi lên một cái hộp sắt lớn. Khi chiếc hộp sắt vừa trồi lên hết thì cũng là lúc chiếc quan tài ngừng rung. Thì ra bác hai của tôi đã dùng chiếc nhẫn để khởi động cơ quan trong cỗ quan tài này.
Tôi và bác hai tiến lại gần chiếc hộp sắt kia, bác hai đưa tay với lấy nó, sau đó thì đặt nó xuống đàn tế trời và cẩn thận quan sát.
Đó là chiếc hộ gỗ hình vuông có chiều dài khoảng hai mươi centimet chiều cao khoảng bảy centimet. Chiếc hộp sắt này được thiết kế vô cùng tỉ mỉ, giữa các chi tiết cạnh với nhau không hề để lộ ra một khe hở nào, mặt sắt được mài rũa cũng vô cùng nhẵn, bên trên mặt hộp cũng được khắc hình bông hoa như chiếc quan tài kia. Tuy nhiên vì được thiết kế quá tính xảo nên nó cũng được khóa cũng vô kỹ.
“Đây là một loại mật mã cổ, không phải người bình thường có thể mở được. Loại sắt này được nung ở nhiệt độ vô cùng cao, cho dù dùng búa tạ đập hay dùng lưỡi dao kim cương để cắt thì cũng không phá được.” Bác hai giải thích, tuy nhiên nhìn nét mặt đang dần dãn ra của bác tôi tin rằng người bác có cái đầu kì quái như bác hai nhất định sẽ có cách mở ra được.
“Thật may tao đã từng nghiên cứu về loại mật mã cổ này!” Bác hai nhếch mép cười khỉnh, sau đó thì bác di chuyển các dãy số được tạo thành một vòng tròn ở mặt cạnh của chiếc hộp sắt. Vừa di chuyển miệng của bác vừa lẩm bẩm cái gì đó tôi không thể nghe được nó là cái gì. Vừa giống như bác đang đọc thần chú lại vừa giống như bác đang tính nhẩm cái gì đó vậy. Tuy nhiên để bác hai tập trung giải mật mã tôi quyết không làm phiền bác.
Cuối cùng sau vài phút nghiên cứu, khi tiếng tạch cuối cùng trên những dãy số ở mặt cạnh vang lên thì cũng là lúc nắp bên trên của chiếc hộp sắt được bật ngược ra.
Đôi mắt của hai bác cháu tôi sáng lên khi nhìn đồ vật được cất giấu trong chiếc hộp sắt này. Không thể tin được đó chính là một nửa của chiếc trâm có các đường nét giống hoàn toàn với hình xăm trên thái dương của tôi. Đây chẳng phải là pháp bảo của Trần Văn Tích trong truyền thuyết sao! Hóa ra nó lại ở đây, vậy rất có thể người nằm trong cỗ quan tài kia là Trần Văn Tích chứ không phải là thủ lĩnh bộ tộc Can Chi.
Tôi vui mừng khôn xiết cầm chiếc trâm vàng trên tay, tuy nhiên điều đáng tiếc và không thể hiểu được rằng chiếc trâm này chỉ có một nửa, một nửa còn lại không biết ở đâu. Dù sao thì trước mắt cũng có thu hoạch nhất định, nét mặt của hai bác cháu tôi cũng dãn ra phân nửa.
Đúng lúc đó, toà cổ Đàn này lại rung lên, lần này tần số rung mạnh hơn rất nhiều so với lúc nãy. Cơ thể hai bác cháu tôi chao đảo, thiếu chút nữa thì tôi ngã ngửa ra hướng lan can. Tôi vội vàng cất nửa chiếc trâm vàng vào trong ba lô, sau đó cố gắng giữ vững trọng tâm không để cho bản thân bị ngã.
“Nhất định là con mãng xà kia đã khởi động cơ quan của toàn cổ Đàn này!” Trong tiếng rung chuyển, bác hai hét lên.
Tôi đưa mắt quan sát xuống dưới, con mãng xà lúc này không còn đập cái đuôi của nó vào cây trụ nữa, mà nó ung dung quấn thân vào chiếc chuông đồng phía bên ngoài. Nhìn nó lúc này chẳng khác nào như ngư ông ngồi đắc lợi chờ chúng tôi từ từ mà chết trong khi nó chẳng tốn một chút công sức nào.
“Phải làm sao bây giờ bác hai?” Giọng tôi hốt hoảng.
“Tìm cách phá giải cái bẫy này…. Nếu không thì cái tòa cổ Đàn này sụp xuống tao với mày chỉ còn nước làm mồi cho con cự mãng kia thôi!”
Phá giải cơ quan phải phá giải như thế nào đây?
Hai bác cháu tôi ngồi thấp xuống, hai tay bám chặt vào mấy sợ dây xích sắt cố gắng giữ vững trọng tâm để không bị trượt ra phía ngoài lan can.
Bác hai đảo mắt nhìn xung quanh, nét mặt của bác lúc này vô cùng căng thẳng. Sự sống của hai chúng tôi rõ ràng chỉ còn nằm trong gang tấc.
“Rốt cuộc cái kiến trúc này là thứ cổ quái gì!” Bác hai gầm lên giọng có chút bất lực. Tòa cổ Đàn vẫn không ngừng rung lên, mỗi lúc một mạnh hơn.
Đột nhiên sợi dây sắt mà hai bác cháu tôi đang bám phải rơi mạnh xuống khiến hai bác cháu tôi mất đà theo quán tính mà ngã nhào ra phía sau. Tôi bị lăn xuống dưới cầu thang của tầng số 6, còn bác hai thì may mắn bám được mép của cỗ quan tài nên không sao.
Đúng rồi, tôi chợt nhớ ra tầng số 6 có cấu trúc khác hoàn toàn với 6 tầng còn lại, nhất định là vấn đề sẽ nằm ở đây.
“Cháu nghĩ cơ quan nhất định nằm ở tầng số 6. Bác không thấy cái kiến trúc đó có điểm khác lạ sao!” Tôi vừa hét lên vừa cố gắng bám lấy lan can cầu thang.
Đôi mắt của bác hai khẽ trợn lên một chút, biểu cảm này của bác cho tôi thấy được rằng bác đã nghĩ ra được cái gì đó vậy. Bác hai buông tay ra khỏi cỗ quan tài, sau đó bám vào mép lan can trườn xuống cầu thang nơi đôi đang ở đó.
“Cấu trúc này vừa tròn bảy tầng nhất định không phải là một con số trùng hợp.” Bác hai nhắm tịt mắt như để tập trung tinh thần suy nghĩ kết nối mọi thứ lại.
Một hồi sau bác mở mắt ra và nói tiếp: “Tầng 1 chứa áo giáp, kiếm,… điều này tượng trưng cho sấm ở trên trời, đây là quẻ Chấn. Tầng 2 là phòng đặt vại chứa nước, nước là quẻ Khảm. Tầng 3 là phòng chứa các công cụ làm bếp, tương ứng với lửa, đây là quẻ Ly. Tầng 4 là thư phòng đọc sách, sách tượng trưng cho rừng núi, đây là quẻ Cấn (chú thích: ý muốn biểu thị giấy được làm bằng gỗ, mà gỗ thì ở trên núi trên rừng). tầng 5 là nơi chứa tượng đất nung, điều này tượng trưng cho đất là quẻ Khôn. Tầng 6 là một căn phòng rỗng quay ngược lại với chiều của các tầng còn lại, phòng rỗng đích thị là để đón gió, đây là quẻ Tốn. Tầng 7 nơi tế trời thì chính là quẻ Càn. Bát quái Càn, Đoài, Ly, Chấn, Tồn, Khảm, Cấn, Khôn, rốt cuộc theo kiến trúc của toà cổ Đàn này là thiếu mát quẻ Đoài.”
Bác hai của tôi lúc này như phát điên vậy, đôi mắt của bác trợn lên vô cùng đáng sợ, miệng liên tục lẩm bấm mấy thứ gọi là bát quái. Đột nhiên bác trườn theo lan can di chuyển về mặt chính điện của tầng số 6, tức là hướng ngược lại với các tầng còn lại. Tôi cũng cố gắng bám chặt vào lan can mà di chuyển theo bác.
Khi di chuyển đến chính điện của tầng số 6, bác hai đưa mắt quan sát xung quanh giống như đang tìm kiếm một thứ gì đó vậy. Cuối cùng đôi mắt của bác dừng lại một cái đầm lầy nằm ở phía sau bên dưới của toà cổ Đàn.
Bác hai lộ rõ vẻ mặt sung sướng, giống như là bác đã tìm ra đường sống vậy.
“Rốt cuộc là cái quái gì thế bác hai?” Tôi hét lên trong tiếng rung ầm ầm của toà cổ Đàn.
“Cái đầm lầy kia chính là tượng trưng cho quẻ Đoài, đó là nơi thoát thân của chúng ta!” Bác hai vừa chỉ xuống cái đầm lầy bên dưới vừa nói.
Chiều cao từ nơi chúng tôi đang đứng đến cái đầm lầy kia khỏa mười bảy mét, làm sao tôi có thể nhảy đây.
Đúng lúc đó toà cổ Đàn rung lên một trận vô cùng mạnh giống như là sắp sụp đến nơi rồi vậy. Sau đó thì chúng tôi nghe thấy tiếng khè khè lớn của con mãng xà. Khốn nạn, con mãng xã như đoán được suy nghĩ của chúng tôi vậy, nó lúc này đang nằm chỗm chệ bên cạnh cái đầm lầy, cái cổ của nó vươn lên, ánh mắt nhìn chúng tôi vô cùng dữ tợn.