Sau khi bụt cho Phúc biết rằng giặc Ân đang tràn qua nước ta, và nếu không có sự giúp đỡ của cậu thì cả cái làng đó sẽ bị xóa sổ. Phúc chạy về tới làng, cậu ôm chầm lấy bố mẹ mình mừng rỡ, bản thân bố mẹ Phúc thấy con mìch đi biệt bấy lâu giờ quay về nhà thì cũng mừng lắm mà ôm chầm lấy cậu ta. Thế nhưng có lẽ cái sự đoàn viên đó chẳng kéo dài được lâu, chả là thế giặc Ân đang rất mạnh, binh lính của nhà vua có mặt rất nhiều ở làng Phù Đổng, khi thấy Phúc họ lập tức bắt giữ và tạm giam cậu. Chẳng là vụ việc cả nhà Lộc bị thảm sát, một số người dân làng bên nói rằng họ thường thấy Phúc trèo lên cây cao mà dòm vô nhà Lộc. Nghi ngờ rằng Phúc có dính lứu quan trên đã ra lệnh truy nã và bắt Phúc tạm giam để làm rõ thêm sự việc. Người của làng Phù Đổng thì luôn tin rằng Phúc là người tốt và không có lí gì để giết hại cả nhà Lộc, thế nhưng họ không có gì làm bằng trứng nên họ cũng chì biết lặng im mà không giúp gì được cho cậu.
Về phần Phúc, dù cho bản thân cậu có bị oan và bắt giam vô cớ, thế nhưng Phúc không hề nỏi sung lên hay làm loạn, mà cậu thấy rằng ngục tù là nơi tốt nhất để cậu suy nghĩ về những gì mà bụt đã nói với cậu, câu chuyện về con trâu tinh. Thế nhưng Phúc cũng chẳng có thời gian ngồi ở lao tù lâu để suy ngẫm, vì đích thân cậu được sứ giả của đức vua tới thả ra, chính là vị quan ngày nào ở hội chọi trâu. Vị quan này sau khi biết lí do Phúc bị giam giữ thì ngay đến bản thân ông còn không tin rằng Phúc có thể làm víếc đó. Sau khi hỏi Phúc có cách nào để chứng minh được mình là kẻ vô tội không, Phúc đã chỉ chỗ cho vị quan phái binh lính tới bên bờ suối trong rừng sẽ thấy ba ngôi mộ, cái mộ ở giữa chính có hài cốt của một con trâu cực to. Đó chính là hài cốt của con trâu tinh, và chính nó đã ra tay sát hại cả nhà Lộc và Lạc Ân. Không chần trờ thêm một phút giây, vị quan đó ngay lập tức phái người tới ngay bên con suối để tìm ra sự thật, và ngay sau khi đào được hài cốt to lớn của một con trâu, thì Phúc lập tức được thả và phong làm tướng quân để ra trận chống trả giặc Ân.
Phúc lên làm tướng quân thì được ban cho một bộ giáp sắt của vua, chẳng là vị quan này đã bẩm báo với vua về sức mạnh thần kì của Phúc, nên vị vụa đích thân ban tặng cho cậu ta bộ giáp sắt để chống lại giặc Ân. Bên cạnh đó, khi được hỏi Phúc thích dùng loại binh khí gì nhất, thì cậu nói rằng muốn dùng gậy có hình thân tre. Theo lời của Phúc, vị quan này liên cho thợ rèn đúc cho Phúc hai cây gậy bằng sắt hình thân tre cứng cáp. Bên cạnh đó, vị quan còn tức tốc đi tìm ngựa cho cậu. Thế nhưng kì tích đã xảy ra, con hắc mã quý báu của nhà vua ngay sau ngày Phúc được phong làm tướng quân chấn giữ làng Phù Đổng thì nó đã lồng lộn lên mà đạp chuồng phi thẳng về làng Phù Đổng mặc cho quân binh hết đường ngăn chặn. Tin rằng đây là điềm lành báo hiệu mãnh tướng, nhà vùa lập tức truyền lệnh ban cho Phúc thêm nhiều bổng lộc hơn nữa. Có được ngựa quý, Phúc vui mừng lắm và xin vị quan đúc cho một bộ giáp sắt đặc biệt nữa cho chú ngựa này. Thời gian cứ thế thấm thoát trôi qua, thế giặc Ân thì càng ngày càng mạnh và chúng đã tiến tới gần chân làng Phù Đổng hơn nữa. Thế giặc lâm nguy, quan quân của vua liền ra lệnh cho binh lính chuẩn bị kĩ để giao chiến. Tối hôm đó, làng Phù Đổng mở tiệc linh đình để liên hoan và chúc may mắn tới những chiến sĩ sáng mai ra trận. Có lẽ cái tối hôm đó là cái tôi đầu tiên và cũng là lần cuối cùng trong đời Phúc mà cậu được ăn nhiều món ngon như vậy. Tối hôm đó đích thân Phúc đã hỏi mẹ mình về chân thân thật của mình, chẳng là cậu muốn làm rõ mọi chuyện trước khi ra trận, có lẽ cậu ta cũng lo rằng mình sẽ không còn sống để quay về mà tìm ra được sự thật. Mẹ Phúc lúc đầu nghe Phúc hỏi cậu là con ai thì bà khăng khăng nhất mực cậu là con của bà và chồng mình. Thế nhưng chỉ đến khi Phúc kể lại câu chuyện mà bụt hiện lên ngày nào nói với cậu thì bà mới cứng họng. Mặt mẹ Phúc buồn vời vợi, bà nói:
– Mẹ không muốn giấu con, nhưng những gì mà bụt nói là thật đó. Mẹ có con là vì mẹ đã ướm chân mình lên vết chân của yêu tinh.
Phúc nghe đến đây thì cậu như chết lặng đi trong giây lát, thế rồi trên môi Phúc mỉm cười, một nụ cười nhẹ nhõm. Mẹ Phúc nước mắt rơm rớm ôm Phúc nói:
– Mẹ xin lỗi con vì đã giấu con, nhưng thực sự mẹ luôn coi con là chính con của mẹ mà.
Phúc cũng vòng tay ôm lấy mẹ mình, cậu nói:
– Mẹ yên tâm, trong thâm tâm con, con luôn coi cha và mẹ là hai người thân ruột thịt duy nhất.
Vậy là Phúc đã rõ mọi chuyện, cậu chính là con của yêu tinh, là đầu thai của đứa con của trâu tinh. Phúc giờ đây cảm thấy hối hận lắm, vì chính tay cậu đã giết chết người cha ruột của mình mà không để cho ông ta có được một lời giải thích. Sau một đêm suy nghĩ không ngủ, cuối cùng Phúc đã đưa ra một quyết định, một quyết định có thể nói là khá táo bạo, một quyết định mà cậu tin rằng sẽ không một ai trong làng Phù Đổng phải thiệt mạng nữa. Sáng sớm hôm sau, khi binh lính đang chuẩn bị trận địa, đính thân Phúc đã tới và tâu với vị quan cai quản và nói rằng muốn binh lĩnh hay giúp đỡ toàn bộ dân Làng bỏ đi lánh nạn, đợi ba ngày sau hãy quay về. Lúc đầu vị quan này nghe vậy thì gạt tay lắc đầu không đồng ý, thế nhưng để chứng minh sức mạnh tiềm ẩn của mình, Phúc đã hai tay rỡ hẳn cây đa trăm năm giữa làng lên và đặt nó chặn ngay giữa đường làng. Sau khi chứng kiến cái sức mạnh phi phàm đó của cậu, thì vị quan này càng kính phục hơn nữa, ông nói:
– Nếu thần tướng đã nói vậy, thì ta sẽ chiều theo ý của thần tướng. Nhưng nếu như thần tướng cần viện quân, hãy đốt một ngọn lửa lớn, lập tức quân chi viện sẽ tới.
Phúc lắc đầu đáp:
– Cám ơn ngài, nhưng tôi sẽ không cần đâu. Tôi và cha tôi đã nợ dân làng Phù Đồng quá nhiều. Tôi quyết sẽ không để cho dân làng Phù Đổng phải hy sinh thêm ai nữa đâu.
Vị quan này nghe vậy mới ngạc nhiên hỏi:
– Cha cậu chẳng phải là ông lão nghèo trong làng sao?
Phúc lắc đầu nói:
– Không, cha tôi chính là con trâu tinh. Bộ hài cốt ngày nào mà binh lính tìm được ở ven suối chính là cha tôi đó.
Vị quan này nghe thấy vậy thì càng kinh ngạc hơn nữa, thế nhưng ông cũng chỉ biết im lặng. Sau khi đã di dời toàn bộ dân làng đi, trước khi đi nốt, vị quan còn quay đầu lại hỏi Phúc:
– Thần tướng đã nghĩ kĩ chưa? Nếu như thần tướng thất thủ thì sao?
Phúc mỉm cười nói:
– Ngài yên tâm, nếu như tôi thất thủ, thì hãy để cho người đời mãi nguyển rủa tôi.
Vị quan này mỉm cười, thế rồi ông ta và binh lính phi ngựa lao đi. Chỉ còn mình Phúc và con bạch mã với bộ giáp sắt bọc toàn thân ở lại làng. Phúc quay đầu vuốt ve con ngựa nói:
– Giờ chỉ còn ta với mi thôi, ngựa ạ.
Giặc Ân với số lượng lớn và sức mạnh hủy diệt, chúng ùn ùn kéo tới làng Phù Đổng. Vào tới làng, lũ giặc Ân vô cùng ngạc nhiên khi bọn chúng thấy cả ngôi làng vắng hoe không một bóng người. Tên tướng lĩnh của giặc cười lớn nói:
– Ha ha, bọn nhát chết đã chạy hết rồi.
Lập tức mấy tên linh cũng cười ầm cả lên. Chúng nhạo báng cũng đúng thôi, vì tính ra thì làng Phù Đổng chỉ còn cách kinh thành có mấy chục dặm nữa mà thôi. Cả toán giặc đông ngùn ngụt đang vừa đi vừa lùng sục và đốt phá từng căn nhà một. Bọn giặc Ân ngùn ngụt khí thế tiến đến giữa làng thì chúng kinh hãi khi thấy một viên mãnh tướng trên người là bộ giáp sắc sáng lòa, hai tây lăm lăm hai cây gậy sắt, cươi trên một con hắc mã cũng được bọc sắt đứng ngay dưới gốc đa. Tên tướng lãnh quay đầu lại chỉ tay về phía Phúc nói với đám lính đang hùng hục khí thế:
– Chúng mày coi, vẫn còn có một tên chán sống đó chứ.
Bọn giặc lại cười ầm lên, thế rồi tên chỉ huy này tiến tới trước mặt Phúc hắn nói:
– Này tên kia, nhà ngươi có vẻ dũng cảm đó nhỉ.
Phúc từ từ tiến tới, cậu nói:
– Ta cho các người một cơ hội cuối, hãy lui về đi.
Lũ giặc nghe thấy giọng Phúc còn khá trẻ thì chúng cười ầm lên, tên chỉ huy cố nhịn cười nói:
– Coi bộ gan ngươi cũng lớn qua ha? Ta thích đó, hay là ngươi đầu hàng theo phe bọn ta. Ta sẽ tâu với lãnh chúa cho ngươi cai quản cả cái làng này, nhà ngươi thấy sao?
Phúc mặt vẫn không đổi sắc, câu dơ một cây gậy sắt lên ngang mặt tên tướng lĩnh chỉ vào hắn mà nói:
– Ta nhắc lại lần nữa, hay quay đầu lại đi.
Tên tướng giặc thấy Phúc khá rắn, hắn mặt đang lại nói:
– Nhà ngươi có thấy rằng, sau lưng ta là vạn ngàng binh mã không? Người nghĩ rằng một mình ngươi có thể cản lại được tất cả chúng ta hay sao?
Phúc vẫn giữ cây sắt chỉ vào mặt tên tướng giặc mà nói:
– Thứ đáng sợ nhất trên đời này không phải là nội sợ về những gì mình sẽ mất. Mà thứ đáng sợ nhất trên đời là sự sợ hãi cái kẻ không còn gì để mất.
Tên tướng giặc nghe thấy những lời lẽ đó của Phúc thi điên tiết lắm, hắn tin chắc rằng Phúc đã chán sống rồi. Nghĩ đến đây, hiên ngắn răng nói:
– Mày…
Nhưng có lẽ Phúc đã đoán được rằng tên tướng giặc đã chịu hết nổi, không để cho hắn nói nốt câu, Phúc co tay cầm cây gậy lại. Thế rồi cậu ta phi mạnh cái cây gậy đó đập thẳng vào mặt tên tưỡng lĩnh. Cậy gậy đập mạnh vào mặt khiến cho tên tướng lãnh chết bất đắc kì tử ngã ngửa ra đừng sau rơi khỏi ngựa cái rầm, cây gậy thì nẩy lại thẳng vào tay của Phúc. Bọn giặc đứng sau há mồm kinh hãi khi thấy tướng lĩnh bị giết chỉ trong tích tắc. Chúng đứng đó trong lòng có hơi lo sợ, bón chúng hết nhìn tên tướng giặc nằm trên nền đất im lìm, rồi lại nhìn Phúc vẫn đang ngồi trên yên nghựa, hai tay nắm chắc hai thanh sắt với vẻ mặt đanh lại. Có lẽ bọn giặc nghĩ rằng chỉ có mình Phúc mà chống lại cả một đội quân hùng hậu thế này, nghĩ đến đây bọn giặc dơ giáo tuốt kiếm lao thẳng về phía Phúc. Phúc cũng nắm chặt tay, thế rồi cậu thúc ngựa lao thẳng về phía bọn giặc đang hăng máu chém giết. Một mình phúc cầm hai thanh gậy sắt lao vào giữa đám giặc, hai thanh sắt sắt dài như nhẩy múa trên tay Phúc, dậy dơ đến đâu thì lập tức bọn giặc Ân đổ như ngả dạ. Lụ giặc cứ thế thi nhau lao về phí Phúc như một lũ thiêu thân lao thẳng về phía đống lửa đang cháy ngùn ngụt vậy, hết tóp này đến tốp khác.
Giặc Ân đông đến mức mà chúng chiến đấu liên tiếp với Phúc trong suốt hai ngày hai đêm. Đến đêm thứ ba thì bọn giặc như hỗn loạn hẳn. Bọn chúng thu quân giáp lá cà về, từ đằng sau chúng kéo ra những cố máy bắn tên to lớn, chúng phóng những ngọn lao lớn về phía Phúc, nhưng Phúc nhanh nhẹn đã né được hết. Thêm vào đó, bọn giặc Ân dùng máy hất dầu, chúng châm lửa và bẩy những chả dầu cháy rực rực về phía cậu, chẳng mấy chốc mà cả Phúc và chiễn mã đã đứng giữa biển lửa. Thế nhưng cho dù bọn giặc có dùng cách gì đi chăng nữa thì Phúc với chiến mã vẫn hiên ngang chống trả lại được. Tuy nói rằng Phúc là mãnh tướng có sức mạnh hơn người, nhưng dù sao cậu ta vẫn chỉ có một cơ thể của người thường thì làm sao chống cự lâu được nữa chứ? Cuối cùng cái gì đến cũng phải đến, bộ giáp sắt trên người của Phúc và chiến mã do ngâm trong biển lửa quá lâu mà nóng dần lên. Thấy rằng bộ giáp quá vướng víu, Phúc quyết định lột giáp sắt của mình và chiến mã ra mà cởi trần quyết chiến với giặc. Hai thánh ắt cứng cáp hình thân tre của Phúc tung hoành ngang dọc suốt hai ngày thì cuối cùng vì va đập quá nhiều cộng với sức nóng cửa lửa cũng đã gẫy làm đôi.
Nhanh chí, cuối cùng Phúc vội phi ngựa tới mấy bụi tre mà nhổ tre lên dùng làm vũ khí quất về phía bọn giặc ân. Cuộc chiến vẫn diễn ra trong hỗn loạn cho tới chiều ngày thứ ba thì chiến mã do trên mình không còn giáp sắt nên bị chém, chọc, đâm quá nhiều mà mất máu cuối cùng đã ngã gục. Phúc một tay cố chống trả, một tay cậu vuốt mắt cho chiến mã. Thế rồi Phúc người không chạy về phía giặc Ân cầm thân tre lao vào quất cho bọn giặc một trận tơi bời. Đến đêm hôm thứ ba, thì bọn giặc Ân đã thiệt mạng, bị thương, và thậm chí là bỏ chạy hơn hai phần ba, số một phần ba còn lại thì tay cầm vũ khí run rẩy đứng quây lấy Phúc nhưng cách cậu tầm năm bước chân. Phúc đứng đó thở dốc, trên người là vô vàn vết thương, máu cứ tứa ra như suối. Phúc có cảm giác như toàn thân cậu không còn đứng vững nổi, Phúc liền mạnh tay cắm mạnh hai cây tre xuống đất làm điểm tựa. Thế rồi cậu nhìn bọn giặc Ân hét lớn:
– Bây giờ các người muốn sao?! Sống hay chết?!
Phúc vừa nói giứt câu, thì trên trời là một tiếng sấm nổ vang vọng khiến cho bọn giặc Ân giật thót tim mà tuôn rơi vũ khí, có nhiều tên vì quá kinh sợ mã đã đứt mạnh máu não lăn đùng ra đất. Bọn giặc này bây giờ như nhận ra Phúc không phải là người thường, ngay lập tức chúng cùng nhau quỳ xuống cúi lạy Phúc tới tấp. Sau đó bọn chúng kéo nhau quay đầu chạy khỏi làng Phù Đổng bán sống bán chết. Phúc cứ đứng đó cho tới khi bọn giặc Ân đã lui hết, chỉ còn lại mình cậu dưới ánh trăng vằng vặc và cảnh tượng hỗn độn với xác giặc la liệt. Phúc như kiệt quệ sức lực, cậu ta đổ gục người xuống đất trên hai đầu gối, cậu ta ngửa cổ lên trời nói:
– Thiên Phụ ơi, Địa Mẫu ơi… ta đã giả hết nợ đời rồi, hãy mang ta đi đi…
Nói dứt câu thì Phúc đổ dục đầu chúi xuống đất, thế nhưng hai tay cậu thì vẫn nắm chắc vào hai thân cây tre.
Rạng sáng hôm đó, bố mẹ Phúc đang nằm trong một cái lều tạm trú thì bất ngờ mẹ của cậu ta tỉnh giấc. Thế rồi khi bà ta nhìn ra cửa, bà vô cùng vui sướng khi thấy Phúc đang cởi trần trên người lành lặn hoàn toàn đứng đó, bà vui sướng ngồi dậy nói:
– Con yêu, con không sao chứ?
Thế nhưng Phúc không nói gì, cậu chỉ lẳng lặng tiến vô lều, thế rồi Phúc quỳ gối xuống mà cúi lạy cha mẹ và tan biến dần. Mẹ Phúc bây giờ thì như hiểu ra mọi chuyện, bà ta đưa tay lên miệng như cố bịt đi cái tiếng khóc nấc lên đang lớn dần với hai hàng nước mắt đang tuôn rơi trên má bà.
Sáng hôm đó, binh lính và dân làng quay lại làng Phù Đổng, họ thu dọn bái chiến trường và cố tìm thi thể của Phúc nhưng tuyệt nhiên không thấy đâu cả, thậm chí là cả xác của con hắc mã nữa. Những gì còn sót lại của Phúc họa chăng chỉ còn là bộ giáp sắt và hai cậy tre cắm song song ở giữa làng. Mọi người bắt tay vào xây dựng lại Làng Phù Đổng và bắt tay vào việc xây cho Phúc một ngôi mộ với chức danh tướng quân. Thế nhưng ngay mùa xuân hôm đó, khi mà mọi người đang vui mừng đón xuân chiến thắng thì tất thẩy ai ai cũng kinh ngạc khi họ nhìn thấy bóng người cưỡi ngựa y như Phúc ngày nào phi từ đình làng bay thẳng lên trời. Được tin này, dân làng đã chuyển bia mộ của Phúc vào đình làng và tôn thờ cậu như một vị thần, ngoài ra, nhà Vua sau khi biết được hiện tượng lạ bên phong cho Phúc là “Phù Đổng Thiên Vương”.
Cũng kể từ đó mà câu truyện về Phúc được không chỉ dân làng Phù Đổng truyền tụng nhau mà khắp nơi trên đất nước ai ai cũng ca ngợi cậu ta. Vị đạo sĩ ngày nào sau khi biết rõ đầu đuôi sự việc, ông đã đi khắp nơi và kể về Phúc. Riêng chỉ có điều, vì cuộc đời thực của Phúc quá nhiều cay nghiệt và bi thương, nên ông đã lược bớt các chi tiết khác và kể cho người đời nghe về câu truyện Thánh Gióng như chúng ta biết và đọc được cho đến ngày nay.