Hà bị con cọp đen đè xấp trên mặt đất chịu cái sự ăn tươi nuốt sống mà đau đớn đến tận cùng, cậu đưa tay run rẩy cố viết nốt những dòng chữ cuối cùng của cái bài thơ lạ lùng mà có người đang nhắc khéo bên tai và tay thì như bị điều khiển. Đến khi mà Hà viết xong, thì cũng là lúc mà con cọp đen trên lưng cậu đã hoàn toàn biến mất. Hà vẫn nằm im trên mặt đất như thể nghe ngóng tình hình xem con cọp đó đã đi đâu, chỉ đến khi chắc chắn rằng không còn một ai ngoài mình thì Hà mới từ từ ngửa người dậy nằm thở hổn hển. Lấy lại được sức lực thì Hà bò tới một gốc cây tre vầu ngày gần đó cố ngổi thẳng người dậy mà thở hổn hển. Nhìn về phía xa xa thấy cái mũ lưỡi chai của mình bỏ ra hồi nãy, linh tính rằng bị con cọp ma kia vồ vì cởi chiếc mũ có bùa đó ra. Hà chậm rãi rướn người bò tới để đội lại mũ, thế nhưng mà khi chỉ còn cách chiếc mũ lưỡi chai tầm một gang tay, Hà với tay về phía chiếc mũ. Bất ngờ một cái tiếng “quác” từ đâu hiện ra thất thanh làm cho Hà giật thót người dụt tay lại. Chỉ trong có một cái nháy mắt, một mảng đen phóng vụt quá quắp lấy cái mũ bay lên cao. Hà ngẩng đầu nhìn theo, bất ngờ cậu sợ hãi tí són đái khi mà không biết từ đâu ra mà quạ đen rợp trời. trên những ngọn tre vầu cao vút kia là chi chít quạ đen đang đậu, chúng hướng những con mắt đỏ nhìn chằm chằm vào Hà. Hà ở dưới mặt đất vẫn đưa mắt thăm do khắp các ngọn tre vầu, cậu như đang lí giải coi tại sao lại xuất hiện nhiều quạ như vậy, từ trước đến nay trên cái đất này làm gì có chim mà giờ lại xuất hiện cả một đống quạ, nhiều tựa như là chim đi di cư vậy.
Ngay trong giây phút bàng hoàng mà không kém phần ngỡ ngàng này, Hà còn chưa kịp nhận biết được mình cần phải làm gì thì bỗng cái lũ quạ trên cao đồng loạt kêu lên. Hàng trăm, hàng nghìn con quạ cùng một lúc kêu lên nhưng tiếng “quang quác” khiến cho núi rừng rung động, Hà ngồi dưới thì cố đưa tay lên bịt tai cho kín với nỗi lo sợ cái thứ âm thanh “quang quác” quá tải kia sẽ làm cậu ta rách màng nhĩ. Đám quạ kêu lên một hồi, thế rồi mấy trăm con bắt đầu tung cánh mà bay xuống trước mặt Hà, chúng nó lượn thành một vòng xoáy trên mặt đất, và sau mấy giây thì một người đàn bà xuất hiện, đó chính là Bà Chúa Nguyệt. Hà ngồi tựa lưng vào cành tre vầu chố mắt ra nhìn, cái người đàn bà này cao tầm một mét bẩy, cơ thể khá quyến rũ với mái tóc dài. Trên người bà ta là một chiếc áo dài đen sẻ ngực tới quá rốn có mũ chùm đầu, ngang cái eo thon kia là một cái dây nịt mầu đen, khuôn mặt khá xinh đẹp nhưng chỉ có điều nó khá lạnh và vô cảm. Hà cứ ngồi đó thất thần mà ngắm nhìn cái sắc đẹp lạnh rợn người của Bà Chúa Nguyệt, cái bà chúa mà Hà nghĩ rằng chỉ có trong tưởng tượng của thằng Cú Heo. Bà Chúa Nguyệt đứng đó nhìn quanh mặt lạ lẫm như thể tìm kiếm một thứ gì đó, rồi cuối cùng bà ta cũng hướng mắt nhìn về phía Hà đang ngồi trên mặt đất như một phế nhân kia. Bà Chúa Nguyệt nhíu mày nhìn Hà nghi ngờ:
– Nhà ngươi cho gọi ta lên sao?
Hà vẫn ngồi đó mặt đờ ra, miệng không mở nổi. Bà Chúa Nguyệt tiến tới phía Hà nhưng mới bước được có 2 bước thì bà ta đứng khựng lại. Bà Chúa Nguyệt như linh tính có gì đó không phải, bà ta quắc mắt nhìn Hà hỏi giọng đe dọa:
– Nhà ngươi là … thần thánh?
Hà nghe thấy Bà Chúa Nguyệt bảo mình là thần thánh thì cậu có hơi ngỡ ngàng. Nhưng còn chưa kịp mở mồm thì bất ngờ bà ta đưa cái tay phải lên, tức thì một sức mạnh vô hình xuất phát từ ánh trăng đang soi rọi vào người Hà mà nhấc bổng cậu lên. Hà vẫn không dám động đậy vì sợ, cái thế lực vô hình đó từ từ lôi Hà lại về phía Bà Chúa Nguyệt. Bà Chúa Nguyệt đối mặt với Hà, mắt đối mắt, bà ta nói, cái hơi thở lạnh buốt cứ phả vào mặt Hà:
– Nhà ngươi dám bẫy ta sao?
Hà mồ hôi bắt đầu vã ra như tắm, mặt cậu tái dần đi. Bà Chúa Nguyệt đưa cánh tay phải với những móng tay đen sắc nhọn lên đặt vào ngực phải của Hà. Tuy những móng vuốt đó của Bà Chúa Nguyệt chỉ cào nhẹ vào lớp áo nhưng Hà vẫn rùng mình và cảm nhận được sự sắc nhọn của chúng, họa chăng Hà đang lo ngại rằng Bà Chúa Nguyệt sẽ thọc tay vào ngực mà móc quả tim của mình ra. Bà Chúa Nguyệt hăm dọa:
– Đến Thiên Phụ còn không dám bẫy ta, người phép thuật cao thông đến đâu mà dám…
Chợt như nhận ra có gì đó không đúng, Bà Chúa Nguyệt im bặt. Bà ta nhìn Hà từ đầu cho tới chân, rồi lại từ chân cho tới đầu. Mặt bà ta tỏ vẻ khó hiểu, thế rồi bà ta thu cánh tay của mình lại mà đi vòng quanh Hà. Bà Chúa Nguyệt hết nhìn Hà rồi lại nhìn quanh Rừng Câm, có lẽ bà ta đang nhận ra một điều gì đó. Bà Chúa Nguyệt lại tiến tới đứng trước mặt Hà, với cái khuôn mặt ngỡ ngàng lạ lẫm, bà ta hỏi:
– Nhà ngươi đến đây làm gì?
Hà bờ môi khô cứ rung rinh không hé nổi kia như làm cho Bà Chúa Nguyệt có phần hơi nản. Bất ngờ Bà Chúa Nguyệt mở miệng thè ra một cái lưỡi dài mầu tím mà liếm một phát khắp cái khuôn mặt đang ướt đẫm mồ hôi và máu của Hà. Hà thì mặt lê tê phê cho dù cậu có cảm thấy hơi tởm. Bà Chúa Nguyệt thu lại lưỡi và nhấp nhấp miệng như để cảm nhận cái mùi vị của mồ hôi quện với máu của Hà. Mất độ mấy giây, chợt Bà Chúa Nguyệt thốt lên:
– Ồ, hóa ra là vậy…
Bà ta hất nhẹ tay, ngay tức thì Hà lại rơi tự do sấp mặt xuống đất. Bà Chúa Nguyệt đưa tay về phía Hà, ngay tức thì từ ánh trăng, một luồng sáng trắng lạnh rọi xuống bao chùm lấy cả người Hà như thể một cái đèn pha công suất lớn vậy. Ánh sáng này vừa bao chùm lấy Hà thì cậu như tiêu tan mọi đau đớn, mệt mỏi, Hà lại như mới từ từ chống tay ngẩng đầu nhìn Bà Chúa Nguyệt đang đứng quay lưng lại. Bà ta nói:
– Người và đám bạn bè của ngươi biết rõ đứa em ta là ai mà vẫn muốn tiêu diệt nó?
Hà vẫn không trả lời, họa chăng mắt cậu đang dán chặt vào đôi bờ mông nầy nở lấp ló sau cái lớp áo choàng dài mỏng manh kia. Bất ngờ Bà Chúa Nguyệt quay mặt lại nhìn khiến Hà giật bắn mình lại cúi mặt xuống đất. Bà Chúa Nguyệt tiến lại nói:
– Đứng thẳng người dậy.
Hà nghe lời run rẩy từ từ đứng dậy, nhưng mặt vẫn cúi gầm không dám nhìn thẳng vào mặt Bà Chúa Nguyệt. Bà Chúa Nguyệt đứng nhìn cái điệu bộ của Hà thì như hiểu lầm. Bất ngờ bà ta tiến tới, cố áp sát cái quả ngực căng phồng dưới lớp áo xẻ sâu quá rốn vào trước mặt Hà. Hà giật bắn người lùi lại về phía thân cây tre vầu mặt mếu máo chắp tay:
– Con … con lạy bà…
Bà Chúa Nguyệt thấy cái điệu bộ đó của Hà thì cười phá lên, thế rồi bà ta nói:
– Nhà ngươi thực sự muốn chứng minh bản thân mình với Diêm Vương Gia? Thực sự muốn tiêu diệt em ta?
Hà vẫn chỉ còn biết câm nín, có lẽ cũng chẳng cần nói nhiều vì Bà Chúa Nguyệt đã nhìn thấu tâm gan của Hà. Bà ta nói tiếp:
– Với sức lực của ngươi, và cả bạn ngươi gộp lại cũng không thể nào tiêu diệt được em của ta. Thế nhưng mà ta có thể giúp ngươi chứng minh được bản thân với Diêm Vương Gia, ta có thể ban cho ngươi trí tuệ của bóng tối.
Hà ngỡ ngàng nhìn Bà Chúa Nguyệt thăm dò, họa chăng dựa vào những gì mà thằng Cú Heo nó viết thì bà này không bao giờ cho không ai cái gì, kiểu gì chả có giao kèo. Nhưng mà tình thế hiện tại không cho phép Hà từ chối, từ chối là hẹo ngay. Bà Chúa Nguyệt đưa hai tay lên trước mặt, tức thì ở giữa hai bàn tay bà ta hiện ra 8 chú kỳ của mặt trăng, từ đầy cho tới khi khuyết. 8 chu kì này sáng chói lòa cái thứ mầu sáng lạnh lẽo, 8 chu kỳ của mặt trăng bắt đầu xoáy nhanh dần theo chiều kim đồng hồ. Khi xoáy với một tốc độ đủ nhanh, bất ngờ Bà Chúa Nguyệt đưa tay về phía Hà, tức thỉ cả 8 chu kỳ này lao nhanh về phía người cậu và nhập thẳng vào người cậu. Như vừa phải chịu 8 phát giật điện, Hà khựu gối ôm ngực khó thở, nhưng chỉ sau mấy phút là Hà lại trở lại bình thường và còn hơn thế nữa, tự nhiên trong đầu cậu là toàn bộ kiến thức về bóng tói, nhất là về cai bài thơ mà cậu viết lúc nãy đã vô tình triệu hồi Bà Chúa Nguyệt lên.
Hà từ từ đứng thẳng người dậy, cậu ta nhìn Bà Chúa Nguyêt hỏi:
– Sự cân bằng của tự nhiên… điều này…
Bà Chúa Nguyệt khoanh tay trước ngực mỉm cười nhìn Hà nói:
– Đúng vậy, âm dương thái cực, âm dương hòa hợp quyện lấy nhau. Trong âm có dương, trong dương có âm. Không có một nửa nào là hoàn toàn tuyệt đối.
Hà vẫn đứng đó ngẫm nghĩ, bất ngờ từ phía sau Bà Chúa Nguyệt xuất hiện một làn khói đen, làn khói này từ từ tạo thành hình người, cuối cùng tà linh cũng đã hiện diện. Tà linh tiến tới cất tiếng nói ồm ồm vang vọng:
– Chị cả cũng ở đây sao?
Bà Chúa Nguyệt quay người nhìn nói:
– Em vẫn khỏe chứ? Sau bao nhiêu năm nay vẫn vất vưởng không định hình được sao?
Tà linh chỉ tay về phìa Hà nói:
– Em sắp định hình được rồi … chỉ cần em có được thân xác của cái thằng ranh mang mệnh tam dần kìa là….
Chợt tà linh nín bặt, nó dường như cảm thấy có cái gì đó không phải ở đây. Tà linh quay đầu nhìn bà Chúa Nguyệt nói giọng giận dữ:
– Tại sao?! Chị… chị đã làm gì?!
Bà Chúa Nguyệt nói:
– Em có thể lấy bất kì một thân xác, một hình hài nào trên đời này… nhưng hắn thì em không thể nào chiếm được…
Tà linh hét lên cái tiếng hét vang vọng giận dữ:
– Tại sao?!!!
Bà Chúa Nguyệt nói:
– Em đã hấp thụ được tinh hoa của một kẻ tu hành, thì sớm muộn gì em cũng sẽ tự tạo được một hình hài nhất định. Nhưng mà cái thằng ranh này, nó là một mắt xích quan trọng trong việc tồn tại của chúng ta, em không được hại nó.
Tà linh nhìn Bà Chúa Nguyệt chằm chằm, thế nhưng khi nó nhìn vào cái ánh mắt cương quyết của bà chị cả thì chỉ còn biết lùi bước nói giọng uất ức:
– Được… nếu chị cả…. chị cả đã nói thế… thì em xin lui.
Nói rồi tà linh tan thành khói đen biến mất, chỉ còn lại Bà Chúa Nguyệt và Hà đứng đó. Hà sau khi có được kiến thức bóng tối rồi thì cậu như bất bại, chả còn biết sợ gì. Hà tiến về phía Bà Chúa Nguyệt hỏi:
– Bà nói đi… giao kèo là gì?
Bà Chúa Nguyệt quay qua nhìn Hà một hồi lâu, thế rồi bà ta giả vờ xà vào ôm lấy Hà ưỡn éo. Bà ta nói:
– Giao kèo là …
Vừa nói Bà Chúa Nguyệt vừa cà cái phần nóng bóng của mình vào người Hà, Hà nói:
– Tôi nói chuyện nghiêm túc.
Bà Chúa Nguyệt phá lên cười, thế rồi bà ta buông Hà ra đi xa dần và nói:
– Hứa với ta một điều, chỉ cần người bảo dân tại Rừng Câm này chăm chỉ lễ bái cúng kiến đứa em ta thì coi như người đã hoàn thành tốt giao kèo.
Hà ngỡ ngàng hỏi:
– Cúng kiến lễ bái em của bà?
Bà Chúa Nguyệt quay mặt lại mỉm cười:
– Đúng vậy, hay tôn sùng nó như một vị thần, chỉ cần vậy thôi.
Hà nhìn cái nụ cười trên môi của Bà Chúa Nguyệt thì cậu nghi ngờ lắm, nghi ngờ rằng bà ta còn đang có âm mưu gì. Thế nhưng Bà Chúa Nguyệt nói lời cuối cùng:
– Hãy cũng kiến em ta cho thật tốt, vì không có nỗi sợ hãi nào đáng sợ bằng sự lãng quên đâu. Làm được điều đó thì khu Rừng Câm này sẽ trở lại bình thường.
Nói rồi Bà Chúa Nguyệt hóa thành hàng trăm con quạ đen bay đi mất, bỏ lại Hà đứng đó. Trên đầu cậu màn đêm biến thành những đám mây đen tan dần, để lộ ra mặt trời soi rọi xuống khắp Rừng Câm. Hà tiến tới nhặt chiếc mũ lưỡi chai lên đội lại lên đầu, cậu ta thở hắt ra một hơi dài rồi quay đầu đi bộ về chùa Hương Lâm.
Ngọc Lam và thầy Trà đã trở về chùa Hương Lâm an toàn từ rạng sáng, thế nhưng họ đã tìm quanh chùa cả trong lẫn ngoài mãi mà không thấy cậu ta đâu. Lo sốt vó, thầy Trà thì cứ đứng ngồi không yên, hết chấp tay cúi đầu lạy xin Phật Tổ che trở cho thằng đệ tử út dại dột, được một lúc thì lại chạy ra đầu cửa chùa nhìn tứ phía để xem bóng dáng thằng nghịch tử đâu. Đã nhiều lần thầy Trà cứ sồng sộc lên, vừa lo lắng cho Hà, lại vừa muốn tìm ra cậu để cho 1 trận nhừ tử vì tội thầy nói không bao giờ nghe. Đã nhiều lần thầy Trà chuẩn bị đủ mọi loại bù trú phòng thân để phi ra ngoài rừng mà tìm kiếm thằng đệ tử út đang lạc lõng bơ vơ của mình. Cứ mỗi lần trực lao ra thì Ngọc Lam lại ngăn lại và nói rằng rồi Hà sẽ ổn thôi, đơn giản vì đã có Lục Kỳ Quan Nhân hiển linh. Sau mỗi lần giằng co như vậy, thầy Trà đành chấp nhận đứng tựa cửa mà nhìn ra phía xa xăm nơi Rừng Câm với hy vọng rằng thằng đệ tử út của mình sẽ xuất hiện lấp ló sau những thân tre vầu cao vút.
Đến gần trưa, khi thầy Trà đang ngồi thiền bên cạnh Ngọc Lam cố trấn tĩnh bản thân thì cũng là lúc mà Hà bước chân vào sân chùa. Ngọc Lam ngồi thiền bên trong không cần quay đầu lại mỉm cười nói nhỏ:
– Đệ tử út của bác về rồi kia.
Thầy Trà bật dậy như một cái lò xo lao thẳng ra sân. Nhìn thấy thằng đệ tử út của mình vẫn lành lặn tiến bước vào sân mà thầy Trà thở hắt một hơi dài như chút cái gánh nặng ngàn cân trong lồng ngực. Thầy Trà bước xuống sân tiến tới gọi:
– Con.
Hà thấy thầy mình bình an thì cũng mỉm cười thở phào nhẹ nhõm. Ngay khi thầy Trà vừa tiến lại gần phía Hà thì bác ta hốt hoảng khi thấy một vật đang quay “vù vù” lao về phía Hà. Thầy Trà lùi lại chưa kịp thốt lên thì vật này văng thẳng vào chân Hà kêu cái “đốp”. Ngay lập tức Hà ngã khựu chống tay xuống mặt đất. Vật kia đập vào chân Hà xong thì nó văng lại ra phía sau, nơi mà Lục Kỳ Quan Nhân đã đứng sẵn, tay ông đưa ra tóm lấy lá cờ nhọn có chữ “vũ” ở trên. Thầy Trà đứng đó miệng lắp bắp:
– Lục …. Lục Kỳ … Quan Nhân…
Còn chưa hết ngỡ ngàng, bất ngờ LKQN lao tới cầm ngược lá cờ đuôi nhọn mà vụt tới tấp vào người Hà, mặc cho cậu nằm bẹp dí trên nền đất ôm đầu hét lớn van xin. Tiếng gậy sắt đập vào người “bùm bụp”, LKQN hét lớn:
– Nói! Tại sao! Tại Sao lại gọi hắc thánh lên!
Thầy Trà đứng đó dừng hình vì không hiểu chuyện gì xảy ra, Ngọc Lam cũng đã lao ra đứng nhìn từ lúc nãy khi nghe tiếng Hà la hét ngoài sân. LKQN đứng đập cho Hà lên bờ xuống ruộng một lúc, thế rồi ông ta cắm lại cái cờ phía sau lưng nói:
– Nói cho ta nghe! Nhà ngươi là người của thánh thần hay ma quỷ?! Nói!
Hà vẫn nằm ôm đầu trên nền sân lắp bắp:
– Xin ngài …. Vì tình thế mà tôi mới phải…
Lúc này thầy Trà mới cuống cuống lao tới trước mặt Hà quỳ xuống, vái lạy LKQN mà nói:
– Xin LKQN nương tay, xin hãy nghe đệ tử của tôi trình bày.
LKQN quắc mắt nhìn thầy Trà nói:
– Đấy! Nhà ngươi đi mà nghe đệ tử của mình giải thích!
Dứt câu thì LKQN phi thân bay lên trời biến mất. Lúc này Ngọc Lam mới tiến tới đỡ Hà dậy, thầy Trà cũng đứng dậy hỏi mặt lo ngại:
– Nói cho ta nghe… tại sao LKQN lại nói vậy?
Hà nhìn thầy Trà đau đớn nói:
– Nếu con không gọi một trong bát hắc thánh lên … thì làm sao mà chúng ta cản bước được tà linh kia cơ chứ?
Thầy Trà nghe xong cái câu nói đó của cậu ta thì thực sự sốc nặng, hai mắt mở to, mặt đẫn đờ, miệng lắp bắp:
– Gọi… gọi bát hắc thánh …
Ngọc Lam đứng bên cạnh đỡ Hà dậy, có vẻ như cô ta cũng cảm nhận được từ người của Hà có tà khí thì vội hỏi:
– Tại sao trên người cậu lại có hắc khí?
Hà còn chưa kịp đáp lại thì bất ngờ, thầy Trà vung tay vả cái “đốp” vào mặt Hà làm cậu tí nữa thỉ ngã bổ nhào ra sau nếu như không có Ngọc Lam đỡ đứng dậy từ nãy giờ. Thầy Trà lao tới túm cổ Hà giật mạnh quát lên trong điên dại:
– Thằng mất dạy! Mày đã làm gì?!
Hà đứng đó cố giằng tay thầy mình ra, chỉ khổ cho Ngọc Lam, một tay cố đỡ Hà đúng không vững, một tay thì căn ngăn thầy Trà. Hà gào lên:
– Còn làm điều mà con cần phải làm thôi!
Có vẻ như Hà càng nói thì thầy Trà càng điên tiết, hai thầy trò đứng đó lời qua tiếng lại náo loạn cả chùa. Cuối cùng như không chịu nổi nữa, Hà lấy lại sức đẩy Ngọc Lam qua một bên tự đứng vững hét vào mặt thầy mình:
– Thầy nên nhớ, con phải làm như thế thì chúng ta mới điểm chỉ được cái Rừng Câm này! Thấy mở to mắt ra mà xem! Thầy cũng bất lực, ngôi chùa này cũng bất lực! Hỏa thánh và LKQN cũng không làm gì nổi tà linh đó! Nếu cứ như vậy mà không tìm hưởng giải quyết thì bao giờ mới điểm chỉ đủ 3 nơi?!
Thầy Trà mặt đỏ gắt gao miệng run lên:
– Mày… mày…
Hà nói lớn:
– Còn mà không gọi bát hắc thánh lên thì cái thằng đệ tử út này của thầy bỏ mạng trong rừng lâu rồi! Lấy đâu ra cơ hội mà điểm với chả chỉ?! Không lẽ thầy thực sự muốn để tử út của thầy chết mất xác?!
Thầy Trà lại vung tay vả mạnh vào mặt Hà một cái nữa, thầy Trà tím tái mặt mày nghiến răng:
– Thằng … thằng mất dạy này…
Hà đưa tay lên xoa má, cậu nói hai mắt rơm rớm:
– Thầy tu phép học đạo đã lâu, thầy phải hiểu chứ? Trên đời này không có cái gì là tuyệt đối cả. Thế giới này luôn phải có điểm cân bằng, thầy hiểu không?
Ngọc Lam đứng đó nghe câu nói này thì cô ta suy tư, cái câu nói rất quen thuộc, Ngọc Lam lẩm bẩm theo:
– Sự cân bằng của tự nhiên.
Theo như đúng giao kèo với Bà Chúa Nguyệt, Hà đã kêu gọi người dân tại đất Thái Nguyên này làm lễ cúng kiến tà linh tại ngay trước hai cây gạo đã chết khô được coi là Chung Giới Môn. Cứ hàng tháng vào ngày rằm và mùng 1, người dân quanh vụng lại mang hoa quả hương thịt mà dâng lên cái bàn đá được đặt trước 2 cây gạo để cúng kiến tà linh như một vị thần. Và ngay trước cái bàn đá đó, người dân cũng chung tay mua một bức tượng đúc hình khỉ về để thờ cũng. Tuy nhiên có một điều mà Hà giấu kín chỉ có cậu và thầy Trà biết, đó là nơi đây thực chất là để thờ tà linh, một vị thần của bóng tối chứ không phải là thờ ông khỉ như cậu nói với người dân. Thời gian thấm thoát trôi qua, có lẽ là tà linh trong Rừng Câm này đã thực sự ngủ yên, tiếng chim muông hót líu lo lại vang vọng trong rừng, những người đi rừng thì cũng bắt đầu bắt gắp những con thú hoang luẩn quẩn. Và xa xa đâu đó trong Rưng Câm kia là tiếng bà Liên đang khựu gối bên một bộ hài cốt mới được người ta đào lên, Bà Liên khóc trong nước mắt nhạt nhòa:
– Hoa ơi … cuối cùng tôi cũng tìm được bà rồi… về đi, tôi sẽ đưa bà về…
Thầy Trà sau cái hôm lời qua tiếng lại thì vẫn còn giận Hà lắm, một mình ông ta ngồi ở cái bàn nước bên hiên chùa Hương Lâm mà nhâm nhi li trà, đắm mình trong tiếng chim muông líu lo, tâm hồn thì thanh thản bay bổng theo làn khói hương thơm. Đẫ lâu rồi thầy Trà giận không thèm nói chuyện với Hà, phải chăng bác ta đang cần thời gian để suy nghĩ một mình. Dù biết rằng điểm chỉ đầu tiên đã hoàn thành tại nơi Rừng Câm này, thế nhưng mối lo ngại nhất hiện giờ của thầy Trà là Hà. Liệu rằng Hà có thể điểm chỉ được nơi thứ 2 khi mà tính chất của nó khác hẳn với Rừng Câm này? Nơi thứ hai mà Hà sẽ phải điểm chỉ chính là cầu Nại Hà. Cái tên của cầu khá ấn tượng vì nó được qua một con sông chảy từ trên thượng nguồn xuống nhập vào sông hồng, con sông này có tên gọi là sông Luân Hồi. Một trong những con sông vắt ngang qua Rừng Câm, nơi mà người dân Thái Nguyên đồn đại có một con vong quỷ đang ẩn náu, và cứ sau mỗi 4 tháng thì sẽ có có người phải chết tại con sông đó, hay nói đúng hơn là tại cầu Nại Hà.