… Khoảng đầu năm 1997 …
Một chiếc xe 16 chỗ từ từ tiến vào địa phận Rừng Câm, chiếc cửa kéo rộng mở, bước xuống trước là một người đàn bà ngoài 40. Ba ta nhìn quanh và hít một hơi thật sâu như để cố cảm nhận cái mùi đặc trưng của rừng núi:
– Cảnh vật còn đây mà người xưa đâu?
Nói rồi bà quay đầu vào trong xe nói:
– Có lẽ chúng ta phải đi bộ từ đây thôi, trong này không có đường bằng cho xe chạy vào đâu.
Bước xuống xe theo bà còn có thêm 3 người nam giới khác và một người phụ nữ. Người phụ nữ trạc tuổi bà có tên là Hằng, bà ta là một nhà ngoại cảm khá nổi tiếng thời bấy giờ với cái lộc trời cho đó là tìm mộ liệt sĩ. Đi cùng với bà Hằng là một ông thầy phong thủy địa lý có tên là Ninh, nghe đâu hai người còn lại hiện giờ đang đóng quân tại đất Thái Nguyên, và họ được xem là những người am hiểu về địa hình cũng như là đường đi ngã rẽ tại cái khu Rừng Câm này nhất. Cả bốn người bọn họ cứ đi mãi đi mãi, càng ngày họ càng tiến sâu vào trong địa phận của Rừng Câm. Cuối cùng cả bốn cũng đã đặt chân được tới một vùng đất phẳng rộng mênh mông, có dấu hiệu các gốc cây bị chặt đã từ lâu. Chợt bà trưởng đoàn thốt lên:
– Đây rồi … đúng là đây rồi…
Hai mắt bà trưởng đoàn bỗng nhòa đi vì lệ, cái hình ảnh của cả một doanh trại giữa rừng do lữ đoàn pháo binh lại hiện ra ngay trước mắt bà. Bà trưởng đoàn đứng đó như người mất hồn, bà nhớ rõ vị trí từ những xe pháo binh để đâu, bếp ăn dựng ở đâu, tất cả vẫn y nguyên như 30 năm về trước. Một chiến sĩ dẫn đường nhìn quanh nói:
– Bác nhớ chính xác đấy, đây chính là nơi đóng quân ngày xưa của lữ đoàn pháo binh.
Thế rồi cả bốn người bọn họ men theo một con đường “mòn” trong rừng, mà theo như bà trưởng đoàn nói thì đó chính là con đường đẩy pháo luyện tập của lữ đoàn ngày nào. Đi hết con đường đó khoảng 30 phút thì họ gặp một con suối. Bà trưởng đoàn như không kìm được lòng, chợt bà bắt đầu khóc, hai hàng nước mắt tứa ra, tiếng nấc nhè nhẹ bắt đầu xuất hiện. Bà chạy vượt lên trước tiến về phía con suối, bà bước lên cái mép đá lớn, nơi mà trước kia bà với người bạn đồng đội cùng quê vẫn hay ngồi tâm sự. Bà trưởng đoàn ngồi phộc xuống cái mỏm đá đó, bà ôm mặt khóc nhìn xuống mặt suối trong kia, trên mặt nước như lại hiện ra cảnh bà và người bạn đồng hương ngồi bên nhau ngày nào. Lúc này nhà ngoại cảm Hằng mới từ từ tiến tới hỏi:
– Bà muốn bắt đầu chưa?
Bà đội trưởng cố gạt đi hai hàng nước mắt, bà ta nói giọng nghẹn ngào:
– Đúng … đúng là chỗ này rồi… nhờ bà bắt đầu làm việc cho.
Nói rồi bà Hằng đặt cái túi đeo xuống và lấy ra một số đồ như tiền vàng giấy mã bầy lên cái mép đá đó. Bà ta thắp thêm 3 cây nhang cầm trước mặt kẹp với một tờ sớ miệng lẩm rẩm đọc:
– Nam mô a di đà phật, con lạy chin phương trời, mười phương chư phật, chư phật mười phương. Con kính lạy đức thượng ngàn đỉnh thương cao sơn triều mường sơn tinh công chú Lê Mai Đại Vương ngọc điện hạ. Con kính lạy đức thường ngạn chúa tể Mị Nương Quế Hoa công chúa tối tú tối linh…
Bà trưởng đoàn đứng đó chắp tay khấn theo lời bà Hằng đọc khấn, hai đồng chí dẫn đường đứng đó lặng im, ông Ninh lúc này thì đi loanh quanh và bấm độn ngón tay như thể để tính một cái gì đó. Sau khi nhẩm đi tính lại kỹ càng, xem một lượt khắp dọc con suối này thì trên nét mặt ông ta có thoáng gì đó thất thần. Bà Hằng vẫn đứng đó thành khẩn mà khấn:
– … Hôm nay là ngày…tháng…năm. Chúng con có mặt ở đây đốt nén tấm hương kính dâng lễ vật, một dạ chí thành, chắp tay khấn nguyện. Cúi xin lượng cả bao dung, thế đức hiếu sinh, giúp cho chúng con được tiếp xúc với vong linh liệt sĩ Hoa, người đã bị quỷ rừng bắt đi cách đây 30 năm. Cúi xin mẫu thượng ngàn soi đường chỉ lối, để cho chúng con có thể tìm được liệt sĩ Hoa để đưa liệt sĩ về với gia đình. Nam mô a di đà phật, nam mô a di đà phật, nam mô a di đà phật.
Nói rồi bà Hằng đưa tay ra sau ra dấu cho bà trưởng đoàn, bà trưởng đoàn lúc này mới sụt sùi chấp tay nói:
– Hoa ơi … là tôi đây, là Liên đây. Suốt mấy chục năm qua chưa bao giờ tôi quên bà, chưa bao giờ tôi quên được cái nỗi oan ức bị cho là đảo ngũ của bà. Nay chiến tranh đã qua đi, bố mẹ bà cũng nhớ thương bà lắm, bà sống khôn thác thiêng, nếu bà còn ở đây, xin hãy dẫn đường chỉ lối, dưa tôi tới chỗ bà yên nghỉ, để tôi mang bà về với bố mẹ bà nghe.
Nói rồi bà Liên cúi người vái 3 vái. Vừa vái xong, bà Hằng đứng trước mặt bà Liên nãy giờ vẫn nhắm mắt cầm hương và sớ đưa lên trước mặt thì bất ngờ người bà bắt đầu đung đưa. Người bà Hằng cứ thế lắc lư tựa như cành liễu bị gió thổi đung đưa vậy. Bất ngờ toàn thân bà Hằng rung lên một cái, không nói không rằng, mắt vẫn nhắm, hai tay vẫn cầm hương và sớ trước mặt, bà Hằng bước đi một cách rất nhanh, nếu không nhìn kĩ thì cứ như thể bà ta đang bay lướt đi là là trên mặt đất vậy. Bà Liên với hai chiến sĩ kia vội đuổi theo, còn ông Ninh thì từ khi nhìn thấy toàn thân bà Hằng rung lên đã vội mở nắp chai lấy ít nước suối rồi cũng cuống cuồng đuổi theo ba người đó, có vẻ như chỉ có ông Ninh đang nhìn ra được có việc gì đó không phải ở đây. Bà Hằng cứ thế lướt đi là là trên nền rừng lòng vòng, bà Liên và ông Ninh với hai người kia chạy theo mà muốn hụt hơi.
Bất ngờ, tới một đoạn dốc hơi thoai thoải thì bất ngờ bà Hằng ngã úp mặt xuống đất, cả ba người chạy hụt hơi theo sau tới thì có hơi ngỡ ngàng. Hai chiến sĩ kia thì vội tiến tới đỡ bà Hằng dậy, bà Liên đứng đó nhìn một lúc, thế rồi mặt bà hốt hoảng nói:
– Con dốc này … con dốc này là…
Ông Ninh từ nãy giờ để ý mọi người, giờ thấy cái nét mặt của bà Liên thì vội quay ra nói:
– Đây có phải là chỗ lần đầu tiên bà đụng độ con quỷ rừng không?
Bà Liên quay người nhìn ông Ninh như không tin:
– Làm sao … làm sao mà ông biết được?
Ông Ninh còn chưa kịp quay lại phía ba người kia thì bất ngờ bà Hằng hét lớn thất thanh giữa rừng, cái tiếng hét inh tai nhức óc như muốn làm nổ tung đầu của mọi người. Hai chiến sĩ bộ đội đang đỡ bà Hằng thì bị bà ta đẩy ngã lăn cu đơ. Bà Hằng quỳ gối chống tay trên nề rừng toàn thân cứ oặt ẹo, mắt trợn trừng mồm há ra mà phát ra cái tiếng “khò khè” đến ghê người. Chưa dừng lại ở đó, toàn chân, tay cổ, và mặt bà ta xuất hiện các đường lằn đỏ như thể có ai đó cào cấu. Bà Hằng cứ quỳ gối chống tay ở tư thế đó mà chịu trận, miệng khò khè cái tiếng như thể một con thú hoang, pha lẫn là cái tiếng cười điên loạn. Bà Liên và cả 2 chiến sĩ kia đứng đó tái mặt không dám lại gần, Ông Ninh lúc này lấy gói bột tỏi ớt nghiền nát ra đổ vào cái lọ nước suối lúc nãy. Ông Ninh sóc mạng cái chai đó, ông Ninh mở nắp và nhặt một cành cây dài. Ông cầm cành cây này mà vẽ một vòng tròn bao quanh chỗ bà Hằng. Vẽ xong vòng tròn ông đi đủ tứ hướng, mỗi hướng ông viết lên nền đất một chữ phạn. Xong xuôi đâu đó ông bắt đầu vẩy cái thứ nước tỏi ớt lên đầu, lên người bà Hằng. Thứ nước suối pha tỏi ớt này tựa như axit, vừa tưới lên đầu, lên người là y như rằng bà Hằng la hét điên loạn như thể toàn thân bị thiêu sống. Lựa lúc này, ông Ninh thò tay vô như để cố kéo được cái áo khoác trên người của bà Hằng ra, thế nhưng không, ngay khi ông Ninh vừa túm vào vai áo, bất ngờ bà Hằng quay qua trợn mắt nhìn ông Ninh la hét, bà ta với tay ra cào rách tay ông Ninh chảy máu. Như sợ thời cơ sẽ vụt qua, ông Ninh đưa ngay cái cành cây lên trước mặt niệm chú, thế rồi ông ta một tay cố túm vai áo, một tay vung cành cây vụt lia lịa vào mặt bà Hằng hét lớn:
– Tà linh dám hỗn láo sao! Tao đánh cho mày phục pháp thì thôi!
Tiếng cành cây vụt “vun vút” vào mặt bà Hằng khiến 3 người kia phải sót xa, họ lao vào can ngăn hoặc như bảo ông Ninh nhẹ tay thì ông Ninh quát lớn:
– Làm nhẹ tay là chết hết đây!
Ông Ninh cứ thế một tay giữ vai áo bà Hằng, 1 tay vụt vào mặt bà ta đến tóe máu. Cuối cùng khi mà cành cây bị vụt gẫy làm đôi cũng là lúc mà ông Ninh kéo được cái áo khoác của bà Hằng ra mà ngã bổ ngửa ra nền rừng. Nhanh như cắt. ông Ninh bật dậy cuống cuồng bốc đất, nhổ lá trên cành mà cho vào giữa cái áo gói lại, trong khi bà Hằng thì đang lăn lộn trong vòng tròn ôm mặt gào hét. Xong xuôi đâu đó, ông Ninh móc một con hình nhân giấy mầu trắng ra nhét vào giữa. Ông cầm cái áo khoác bọc các thứ đó tiến lại và ở tư thế sẵn sang. Cả ba người kia vẫn đứng đó thất thần nhìn ông như không hiểu ông Ninh tính làm gì tiếp theo. Ông Ninh cứ đứng đó nhìn bà Hằng lăn lộn ôm mặt gào thét điên dại, tới khi mà bà Hằng quay đầu gần tay ông, Ông Ninh nhanh nhẹn vứt cái áo vào thẳng vòng tròn, hai tay với kéo mạnh đầu lôi bà Hằng ra khỏi cái vòng tròn đó. Đúng là kỳ tích, bà Hằng vừa được ông Ninh kéo ra khỏi vòng tròn thì ngay lập tức nằm im lìm, trên mặt và toàn thân thì không hề có vết bầm tím hay xước xác. Ông Ninh hét lớn:
– Mau vào đỡ bà ta lên lưng tôi!
Hai chiến sĩ kia vội tiến tới đỡ bà Hằng nằm lên lưng ông Ninh, thế rồi cả bốn người họ lao nhanh ra khỏi rừng, chỉ có riêng bà Liên vẫn đứng đó bất động. Ông Ninh hét:
– Mau ra khỏi đây nhanh!
Bà Liên ú ớ:
– Nhưng … nhưng mà … còn…
Ông Ninh hét:
– Có muốn đi theo bạn bà luôn không?!
Hai đồng chí bộ đội kia như hiểu được ý ông Ninh, chẳng gì thì gì họ cũng đóng quân tại đây mà. Nhanh như cắt, một chiến sĩ tiến tới kéo tay bà Liên, cả bốn người họ chạy như bay ra khỏi rừng câm, mặc cho bà Liên vẫn vừa chạy vừa ngoái đầu nhìn về phía con dốc đó.
Chiếc xe 16 chỗ từ từ đưa họ rời xa khỏi Rừng Câm, bây giờ thì bà Hằng đã tỉnh lại hoàn toàn, cả bốn người họ ngồi trên xe không ai nói với ai câu gì. Bà Liên ngồi cạnh ông Ninh để mắt thấy ông ta đang lấy cái khăn mùi xoa của mình cố thấm máu từ cái vết cào trên tay, bà ta hỏi:
– Ông … chuyện gì đã xảy ra vậy?
Ông ninh vẫn cố lau vết thương nói:
– Chuyện gì á, chuyện là chúng ta vừa thoát chết chứ sao?
Bà Liên run rẩy:
– Cái thứ … cái thứ đó …
Ông Ninh quay qua nhìn thẳng vào mặt bà Liên nói:
– Thế này nhé, tôi nghĩ là bà sẽ không tìm được hài cốt bạn bà ở cái nơi rừng thiêng nước độc đó đâu. Ít ra là không thể tìm ra trong một sớm một chiều được. Nếu bà thực sự trọng tình cảm với liệt sĩ Hoa, tôi sẽ giới thiệu cho bà một ông thầy ở Thái Nguyên này. Ông ta sẽ giúp được bà, còn tôi chỉ là thầy phong thủy.
Bà Liên nghe xong thì vẫn hỏi:
– Nhưng tôi muốn biết cái thứ vừa nãy là gì?
Ông Ninh lắc đầu:
– Là thứ mà bà không bao giờ muốn đối mặt đâu, người đời gọi cái thứ vừa rồi rà “tà linh”.
Bà Liên nói:
– Tà linh?
Ông Ninh nhìn ra cửa sổ ô tô:
– Không phải ma, cũng chẳng phải quỷ, mà ngang hàng với thánh thần … thứ linh có mặt ở trên đời này từ rất lâu, rất lâu rồi… tựa như là những vị thần bị lãng quên vậy?
Bà Liên nghe cái câu nói đó thì gặng hỏi:
– Ông … ông có thể nói rõ ra hơn được không?
Ông Ninh nói:
– Người mà tôi giới thiệu cho bà có tên là Trà, và ông ta sẽ nói cho bà hiểu rõ mọi vấn đề, nhất là cái khu rừng mà bà từng đóng quân này. Rồi bà sẽ hiểu tại sao người đời gọi là “Rừng Câm”, còn hôm nay hãy mừng là vì bà đã thoát chết.