Trưa ngày hôm sau, đúng giờ chính ngọ những người trong dòng họ Cầm cùng với đám người nhà nhà ông Nhân và bà thầy tàu ra nghĩa trang dòng họ Cầm để làm lễ trấn trùng. Theo lời bà thầy phong thuỷ, vũ trụ được tạo thành từ 5 yếu tố là kim, mộc, thuỷ, hoả và thổ được gọi là ngũ hành. Theo đó từng yếu tố sẽ có sự chuyển hoá qua lại tương sinh, tương khắc với nhau để tạo nên sự sống của vạn vật trên trái đất này. ngũ hành tương sinh bao gồm mộc sinh hoả, hoả sinh thổ, thổ sinh kim, kim sinh thuỷ và thuỷ sinh mộc. Các yếu tố tương sinh sẽ thúc đẩy, hỗ trợ nhau để cùng sinh trưởng và phát triển. Ngũ hành tương khắc bao gồm thuỷ khắc hoả, hoả khắc kim, kim khắc mộc, mộc khắc thổ, thổ khắc thuỷ. Những yếu tố tương khắc này sẽ áp chế, sát phạt cản trở đến sự sinh trưởng của nhau. Để trấn trùng, bà không dùng bùa chú mà sẽ dựa vào quy luật của ngũ hành để trấn.
Bên cạnh ngũ hành tương sinh, ngũ hành tương khắc, còn tồn tại thêm hai quy luật là ngũ hành phản sinh và ngũ hành phản khắc. Trùng tang của gia đình ông Nhân là thuỷ trùng, tức là trùng nước. Theo quy luật tương sinh, kim sẽ sinh thuỷ, tức là kim loại bị nung chảy ở nhiệt độ cao sẽ tan chảy thành nước. Theo ngũ hành phản sinh, kim sinh thuỷ, nhưng nếu nhiều kim loại quá thì nước sẽ bị đục.
Theo ngũ hành tương khắc, thuỷ khắc hoả, tức là nước sẽ dập tắt lửa. Nhưng trong ngũ hành phản khắc, nước khắc lửa, nhưng lửa quá nhiều thì nước cũng sẽ phải cạn. Bà thầy tàu là một bậc kì tài về xem phong thuỷ nên bà sẽ dựa theo những quy luật vừa nêu trên để sắp đặt lễ trấn trùng.
Theo lời bà dặn, người ta đã mua về 49 chiếc đinh bằng kim loại dài 20cm, đem 49 chiếc đinh này đóng đều quanh mộ của Bảo Nam để trấn giữ thần trùng lại. Tiếp đó lại đặt 49 ngọn nến lớn khắp trên mộ. Như vậy bố cục sẽ tạo thành Kim phản thuỷ và hoả khắc thuỷ, kết hợp với đạo pháp của thầy sẽ trấn yểm ngôi mộ một cách dễ dàng.
Bên cạnh đó, bà còn sắp xếp một người sinh năm 1989, mệnh mộc, còn được gọi là đại lâm mộc( cây lớn trong rừng) cầm đuốc đứng cạnh ngôi mộ, trong quá trình làm lễ nếu thấy cây nến nào tắt phải lập tức thắp nó trở lại. Mộc sinh hoả, người này còn có thể giúp tăng sức mạnh của lửa trên mộ. Thêm một người sinh năm 1990, mệnh thổ, thổ sinh kim, giúp tăng sức mạnh của kim loại. Người này cầm một chiếc búa đinh chờ sẵn, nếu thấy động có cây đinh nào có dấu hiệu bị bật lên thì phải ngay lập tức đóng nó xuống.
Bố trí trận pháp xong xuôi, bà thầy tàu nhỏ 3 giọt máu từ đầu ngón tay của mình lên 3 lá bùa đã chuẩn bị từ trước, đem 3 lá bùa gián lên tấm bia mộ của Bảo Nam. Bà lùi ra xa cách ngôi mộ một đoạn chừng 2met thì dừng lại, bắt đầu thi triển thuật pháp yểm mộ. Đưa hai tay ra phía trước bụng mình, bà bắt ấn kiết tường, ngón út, ngón trỏ và ngón giữa giữ thẳng, ngón áp út hơi cong xuống chạm vào đầu ngón cái. Hai mắt bà khép lại miệng lầm rầm đọc thần chú. Bà đọc được một lúc thì từ dưới huyệt mộ bắt đầu có động. Ban đầu là những âm thanh nhỏ lộc cộc như có ai dùng chân đạp vào quan tài ở bên dưới mộ. Sau đó âm thanh đó cứ lớn dần lớn dần theo nhịp đọc chú của bà thầy tàu. Từ xung quanh gió bắt đầu thổi lên xào xạc, mặt đất từ từ chuyển động, toàn bộ ngôi mộ khẽ rung lắc như có động đất. Phía trong huyệt mộ lúc này có tiếng sùng sục cuồn cuộn như nước chảy bên trong. Ngôi mộ càng lúc càng rung lắc mạnh. Khuôn mặt của thầy tàu từ từ biến sắc, nó chuyển từ màu hồng hào sao tái nhợt. Ở trên ngôi mộ, một ngọn nến đã bị thổi tắt. Người cầm đuốc đứng bên cạnh vội châm lửa cho nó bắt sáng trở lại, ngay lập tức lại có ngọn khác tắt vụt đi. Cứ vậy người này chạy vòng vòng quanh ngôi mộ để thắp nến. Những cây đinh cũng theo đà rung lắc của mặt đất mà dần trồi lên. Người đàn ông đứng cạnh đó vội lấy búa để đập nó trở xuống.
Mặt đất càng ngày càng rung lắc giữ dội hơn, gió cũng mỗi lúc một mạnh. Ai nấy có mặt đều hồi hộp theo dõi những sự lạ đang diễn ra tại nghĩa trang dòng họ Cầm. Lúc này mặt bà thầy tàu đã dần chuyển sang màu đỏ, hai tay của bà đổi ấn liên tục, miệng đọc chú mỗi lúc một to và nhanh hơn. Gió thổi làm mái tóc đã được búi gọn gàng phía sau gáy của bà bung ra, bay phất phơ trong gió. Lúc này trông bà thực sự rất giống bạch phát ma nữ trong truyền thuyết. Phía ngôi mộ, hai người đàn ông vẫn đang liên tục đập đinh và thắp lại những ngọn nến. Tuy nhiên lúc này số lượng nến bị tắt ngày càng nhiều, người đàn ông chạy đi chạy lại đến chóng mặt vẫn không kịp để thắp sáng tất cả cùng một lúc. Dưới đất cũng đã có một vài cái đinh bị bật lên khỏi mặt đất. Lúc này ngôi mộ từ từ nứt ra một kẽ nhỏ. Từ kẽ hở đó một dòng nước màu đen đặc sánh như bùn đất từ từ rỉ ra mang theo một mùi hôi thối khó chịu. Cùng lúc đó ba lá bùa trên tấm bia mộ bốc cháy dữ dội. Bà thầy tàu đưa hai tay ôm ngực, từ khoé miệng bà một dòng máu từ từ nhỏ xuống. Lúc này tất cả nến trên ngôi mộ đều đã tắt hết. Bà thầy hét lên :
“Không xong rồi, dưới mộ này là quỷ, mau chạy đi.”
Hai người đàn ông kia lúc này cũng không dám đứng gần ngôi mộ nữa. Vết nứt từ ngôi mộ ngày một lớn, dòng nước đen chảy ra ngày một nhiều. Kì lạ thay, chỗ nước đen đó chỉ chảy ra đến chỗ có những cây đinh sắt được đóng xuống thì dừng lại, ngày một dâng lên cao chứ không hề chảy ra bên ngoài. Phía dưới ngôi mộ phát ra những âm thanh sùng sục như có ai đang đun nước sôi vậy. Mặt đất lúc này vẫn không ngừng rung lắc, những cây đinh cuối cùng cũng đã bị đánh bật lên nằm la liệt trên mặt đất. Từ dưới ngôi mộ, một dòng nước đen phun thẳng lên trời, nước bẩn bắn ra tung toé. Những người đang đứng xem thấy vậy thì vội bỏ chạy ra xa.
Đúng lúc ấy thì từ xa có hai luồng ánh sáng xé không khí mà lao tới, chúng là hai đốm lửa màu đỏ rực to bằng quả trứng gà. Hai đốm lửa ấy bay lượn vài vòng trên ngôi mộ rồi theo chỗ vết nứt chui tuột vào bên trong. Ngôi mộ lúc này càng rung lắc dữ tợn hơn, những người đứng ngoài cũng cảm nhận được mặt đất dưới chân mình đang rung chuyển. Phía trong những âm thanh òng ọc của nước chảy vẫn không ngừng phát ra. Bà thầy tàu hai mắt mở to hết cỡ, miệng há hốc vì ngạc nhiên. Bà ta lẩm trong miệng:
“Đó chính là hoả hồn binh trong truyền thuyết sao?”
Bà Mỹ đứng cạnh vẫn chưa hết run sợ tò mò mà hỏi lại:
“Hoả hồn binh là cái gì vậy thầy? Hai cái đốm lửa đó là ma trơi sao?”
Bà thầy tàu trên mặt vẫn lộ rõ nét bàng hoàng,dường như đã cảm nhận được sự an toàn, bà quay qua bà Mỹ giải thích:
“Nếu ta không nhầm thì hai đốm lửa đó chính là hoả hồn binh. Chúng là loại âm binh có sức mạnh lớn nhất. Tuy nhiên cách luyện loại âm binh này hết sức man rợ. Linh hồn dùng để luyện hoả hồn binh phải là linh hồn người sống được thiêu cho đến chết. Nói cách khác là thầy phù thuỷ phải giết người bằng cách thiêu sống họ, sau khi họ chết thì mang linh hồn đi tu luyện thành âm binh. Ta thật không dám tin đến bây giờ vẫn còn người luyện loại âm binh này.”
Vừa lúc đó từ phía ngoài có một bà cụ từ từ tiến vào. Trên người bà mặc bộ váy áo truyền thống của ngừoi dân tộc Thái, đầu vấn khăn thổ cẩm. bà đi chân trần chống cây gậy trúc, dáng mặt bình thản vừa đi vừa lép bép nhai trầu. Những người hoảng sợ bỏ chạy khi nãy thấy sự lạ đều đã kéo nhau quay trở lại. Một người trong số họ nhận ra người quen vội reo lên:
“Mo Niêng! Chẳng phải mo Niêng ở Hón Nưa đây sao? Đã hơn 10 năm rồi mo chưa bước ra khỏi Hón Nưa.”
Bà thầy tàu lúc này đưa mắt nhìn sang bà cụ dân tộc đã bước tới đứng cạnh mình. Vẻ mặt bà hết sức bình thản, chống cây gậy trúc trước mặt đứng nhìn chăm chú vào ngôi mộ, trên môi như đang nở một nụ cười. Phía dưới ngôi mộ lúc này âm thanh như có người đánh nhau vẫn không ngừng vang lên. Ngôi mộ đã không còn rung mạnh như ban nãy nữa, độ rung cứ nhẹ dần nhẹ dần rồi im bặt. Âm thanh bên dưới cũng đã tắt hẳn. Dòng nước đen hôi thối ban nãy đã không còn, mà thay vào đó là dòng nước tinh khiết như nước suối.
Lúc này mo Niêng mới quay qua bà thầy tàu mà nói:
“Trận pháp này bày không sai, chỉ có điều bà đã sai là dưới ngôi mộ này là quỷ chứ không phải thần. Không thể dùng những cách trấn trùng bình thường mà yểm nó được.”
Bà thầy tàu vội hỏi lại như để chắc chắn những suy đoán của mình nãy giờ có phải là sự thật hay không:
“Cái thứ đó… thực sự là hoả hồn binh sao?”
Mo Niêng mỉm cười gật đầu:
“Đúng vậy, nó chính xác là hoả hồn binh, loại âm binh có sức mạnh lớn nhất trong trời đất.”
Vừa lúc này, từ dưới ngôi mộ có một làn khói trắng thoát ra, chúng toả ra khắp ngôi mộ rồi từ từ kết lại thành dáng hình của hai cái bóng trắng ở dưới mặt đất, một bóng hình của một cậu thiếu niên cao gầy tầm 16-17 tuổi, một người trung niên khoảng gần 40 tuổi béo lùn có râu quai nón và trên người có đầy hình săm. Sau khi hai cái bóng đã tụ thành hình người, chúng đưa mắt nhìn nhau một lượt rồi quay đi quay lại nhìn chính bản thân mình. Chúng cùng cười lên trong vui sướng:
“Chúng ta đã trở về dáng vẻ ban đầu rồi, haha.”
Cái bóng dài ngước mắt nhìn mo Niêng, nó không dấu được niềm vui trong ánh mắt mình mà gọi lớn:
“Mo Niêng ơi, xem chúng tôi này. Có phải như này là tôi đã sống lại rồi không?”
Chưa đợi mo Niêng kịp trả lời, cái bóng tròn đã ngay lập tức gõ cho nó một cái vào đầu rồi bảo:
“Thôi đi ông tướng, chết hơn chục năm rồi mày còn đòi sống lại bộ bị ngáo hả.”
Mo Niêng cười khà khà rồi bảo:
“Đánh hay lắm, cho chừa cái tội lanh chanh.”
Rồi mo nhìn vào cái mặt đang nhăn như đít khỉ của cái bóng dài rồi nói tiếp:
“Chúc mừng hai ngươi đã hoàn toàn hồi phục linh hồn. Hôm nay các ngươi đánh bại quỷ nước đã lập được công lớn, thời gian thử thách của hai ngươi cũng đã hết, tối ngày hôm nay các ngươi sẽ có thể đi đầu thai chuyển kiếp làm người không phải sống lay lắt nơi xó rừng với ta nữa. Bây giờ hãy tranh thủ cơ hội về gặp lại gia đình mình lần cuối đi. Đúng 12 giờ đêm nay sẽ có người đến dẫn hai ngươi đi.”
Hai cái bóng trắng nghe thấy vậy thì ôm chầm lấy nhau mà cười vui sướng. Cái bóng dài chắp hai tay trước ngực vái mo Niêng ba cái rồi bảo:
“Mo Niêng, suốt thời gian qua thực sự cảm ơn bà đã giúp đỡ để chúng tôi có thể tu luyện đến ngày hôm nay. Sau này nếu có cơ hội nhất định tôi sẽ báo đáp.”
Cái bóng dài thì bịn rịn hơn, nó ôm chầm lấy mo Niêng rồi khóc như một đứa trẻ:
“Mo Niêng, sau này chúng tôi đi rồi ai sẽ giúp bà xem bói nữa đây?”
Mo Niêng cười rồi đáp lại:
“Ta già rồi cũng phải được nghỉ ngơi chứ. Các ngươi muốn ta xem bói đến lúc chết luôn hay sao? Khà khà khà.”
Cái bóng tròn nắm tay cái bóng dài rồi nói:
“Mo Niêng sau này hãy nhớ giữ gìn sức khoẻ thật tốt. Nếu có duyên rất mong kiếp sau sẽ lại được gặp lại bà. Chúng tôi phải đi đây.”
Nói rồi hai cái bóng trắng từ từ tan ra. Mo Niêng còn chưa kịp quay người đi thì đã bị gọi giật lại:
“Mo Niêng!”
Hai cái bóng trắng lúc nãy lại tụ lại. Mo Niêng ngơ ngác hỏi:
“Có chuyện gì nữa mà chưa đi?”
Cái bóng dài vội nói:
“Tôi đã nói với bà là tôi rất đẹp trai rồi mà nhỉ? Bà đã thấy tôi nói đúng chưa?”
Nói xong nó liền đưa tay lên vuốt vuốt mái tóc của mình rồi nhoẻn miệng cười. Mo Niêng cũng cười, nhưng ở khoé mắt của bà hai giọt nước mắt đã bị ép cho chảy xuống. Đưa tay lên quệt ngang hàng nước mắt, mo Niêng khóc tu tu như một đứa trẻ, vừa khóc mo vừa mắng:
“Cha bố mày, đứa trẻ ngốc này. Đúng là đẹp trai sáng sủa lắm. Kiếp sau nhớ phải sống cho thật tốt, còn bé phải nghe lời bố mẹ học tập cho đàng hoàng để lớn lên thành người có ích, đừng bỏ nhà đi bụi rồi làm lâm tặc để chết rừng chết rú nữa nghe chưa?”
Cái bóng trắng mỉm cười gật đầu với mo Niêng một cái rồi từ từ tan ra. Không dấu nổi sự tò mò, bà thầy tàu vội hỏi:
“Chuyện này là sao?”
Mo Niêng lúc này mới cười giải thích:
“Ban nãy bà đã nói đúng, nhưng chỉ đúng một nửa. Chúng đúng là những hoả hồn binh được luyện từ linh hồn của người bị thiêu cháy, nhưng không phải ta giết chúng để luyện âm binh. Mà chúng là linh hồn của hai tên lâm tặc ở khu rừng phía trong Hón Nưa. Ngày đó chúng ở lại trong rừng để đốn cây, nửa đêm thằng nhỏ hút thuốc làm cháy cái lán, cả hai đứa nó không kịp ra ngoài chết cháy thành than. Ta đi rừng lấy măng vô tình phát hiện ra linh hồn của bọn chúng đã tiêu tán mất hơn nửa, chúng chỉ còn là những linh hồn rách nát bị thương khắp nơi lang thang trong rừng sâu để ăn xác động vật chết. Cách duy nhất để cứu linh hồn của chúng lúc đó là luyện hoả hồn binh. Chúng theo ta về nhà đến nay cũng đã hơn 10 năm rồi. Hôm nay chúng nó mới có thể khôi phục lại thành một linh hồn bình thường.”
Bà thầy tàu, trên mặt lộ rõ sự thán phục đối với bà cụ dân tộc trước mình, bà ta chắp hai tay trước mặt mình, cúi khom người xuống từ tốn nói:
“ta thật không ngờ ở nơi núi rừng thượng nguồn này vẫn còn có những bậc thầy cao tay đến như vậy. Hôm nay xem như đã được mở mang tầm mắt rồi.”
Mo Niêng lại cất tiếng cười khà khà rồi ra vẻ mặt bí hiểm, bà nói:
“Ở đất nước Việt Nam này còn rất nhiều điều mà bà và tất cả những người dân ở đất nước của bà còn phải ghi nhận đó.”
Vẫn còn gì nữa sao?” Bà thầy tàu nghi hoặc hỏi lại.
“Đó là Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam!”
Nói rồi mo Niêng lại cười lớn. Bà thầy tàu tái mặt. Mo Niêng toan quay người đi thì cảm thấy phía dưới chân mình nằng nặng, dường như có gì đó đang kéo chân váy của bà. Tưởng là hai cái bóng ma hồi nãy còn chưa chịu đi, mo Niêng dơ cây gậy trúc lên cao toan vụt cho chúng một gậy, nhưng giữa chừng bà vội khựng lại. Phía sau bà là linh hồn của hai đứa trẻ, một đứa tầm 10 tuổi, một đứa chỉ tầm 4 tuổi. Quần áo trên người hai đứa trẻ rách nát, mặt mũi lấm lem bùn đất. Linh hồn của chúng cũng đã bị thương nặng, rách nát tơi tả linh lực còn lại rất yếu. Hai đứa trẻ đang dùng tay của mình nắm chặt lấy chân váy của mo Niêng. Mo Niêng như hiểu ra vấn đề, bà cúi khom người xuống rồi hỏi nhỏ:
“Muốn đi theo ta về Hón Nưa sao?”
Hai đứa trẻ đưa đôi mắt đượm buồn nhìn về phía ông Nhân đang cầm ô che nắng cho bà Mỹ, suốt từ hôm qua đến giờ ngoài truyện trấn trùng ra không ta không hề đề cập tới chuyện linh hồn của hai đứa nhỏ xấu số. Lúc còn sống ông không dám một lần thừa nhận chúng, đến ngay cả khi chết đi rồi ông cũng xem như người xa lạ. Kiều đã bị bắt, bọn nhỏ không phải người họ Cầm nên linh hồn không được trú ngụ trong nghĩa trang của dòng họ, giờ đây chúng là những linh hồn vất vưởng không có nơi nương tựa.
Mo Niêng đưa tay xoa lên đầu hai đứa trẻ, trên miệng nhoẻn một nụ cười hiền từ:
“Nếu không còn nơi nào để đi thì theo ta về Hón Nưa. Chúng ta về nhà thôi.”
Nói xong bà quay người cất bước đi trước, hai cái bóng lẽo đẽo theo đằng sau. Bà thầy tàu đứng như chôn chân tại chỗ. Khi bóng ba người dần khuất sau lùm cây, bà ta cúi gập người vái một cái, rồi nhanh chóng cùng mọi người thu dọn đồ đạc trở về thành phố Hồ Chí Minh.
Phiên toà xét xử Kiều được tổ chức xét xử lưu động tại sân bóng xã nơi mà Bân đang ở. Người dân đến xem đứng chật kín cả sân bóng. Khi Kiều lần lượt kể lại quá trình mình ra tay sát hại từng người trong nhà bà Hồng, khuôn mặt cô không có một chút cảm xúc nào sợ hãi. Bà Hồng và Bân như chết lặng trong lòng. Từ khắp xung quanh, tiếng người dân chửi bới, mắng nhiếc Kiều đồng loạt vang lên. Phải mất mấy lần phiên toà phải tạm dừng để dẹp loạn. Ở cái vùng đất đa số người dân còn nghèo nàn lạc hậu, họ sống với nhau bằng đơn thuần và chất phác này, lần đầu tiên xảy ra một sự kiện chấn động như thế. Có một vài người còn nhắc lại trước đây khi đón Kiều về, bà Hồng đã lên mặt với những người trong xóm như thế nào, bà Hồng chỉ lặng lẽ cúi đầu không nói lời nào. Bởi lẽ lúc này đây, trong lòng bà mới là người thực sự thấm thía nhất. Bà tham phú phụ bần, không ngờ đã tự tay mình rước quỷ vào nhà, gián tiếp gây nên cái chết thương tâm của ba người thân trong nhà, suýt chút nữa thì đến cả đứa cháu đích tôn của mình cũng phải bỏ mạng.
Tại phiên toà, bà Hồng và Bân đều ngồi ở vị trí của đại diện gia đình người bị hại, phía hàng ghế đại diện bị cáo trống không không một bóng người. Thi thoảng Kiều lại đưa mắt nhìn xuống hàng ghế và những người hiếu kì đứng chật cứng ở đằng sau, cô đang tìm kiếm hình bóng một người mà cô luôn chờ đợi. Kiều đã vài lần nhờ người nhắn đến ông Nhân thời gian xét xử của mình nhưng đều không nhận được phản hồi. Cuối cùng hôm nay ông ta cũng không tới. Kiều mỉm cười chua sót.
Trước khi toà đưa ra bản án, phía đại diện người bị hại được phép nêu ý kiến. Bà Hồng đứng giữa phiên toà xét xử Kiều, cũng chính là phiên toà xét xử lương tâm của mình. Bà nhìn về phía Liên đang ngồi ở hàng ghế phía sau, hai hàng nước mắt giàn giụa mà nói lớn:
“Mế biết bây giờ nói gì với con thì cũng đã muộn, nhưng mế vẫn muốn nói lời xin lỗi đến con và cháu Cường. Tất cả kết cục ngày hôm nay là do mế và thằng Bân tự chuốc lấy, có hối hận cũng đã không kịp nữa rồi. Liên ơi, trước mặt mọi người ở đây mế muốn nói với con là mế đã hối hận thật sự rồi, ngày ấy mế không nên đuổi con ra khỏi nhà để rước lấy cay đắng vào nhà mình như vậy. Mế mong con và cháu hãy tha lỗi cho mế nha Liên.”
Đại diện chủ toạ gõ mạnh cây búa trên tay xuống bàn rồi nói:
“Đề nghị gia đình bị hại trả lời tập trung vào câu hỏi của toà, gia đình có yêu cầu gì đối với bị cáo Phan Thị Kiều hay không?”
Lúc này Bân đứng dậy, trả lời dứt khoát:
“Gia đình chúng tôi mong toà ra quyết định công tâm, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.”
Phiên toà kết thúc, với những tội ác mà mình đã gây nên Kiều bị kết án tử hình. Cô ta nghe bản án, mặt không hề có một chút cảm xúc nào. Bây giờ Kiều đã mất hết tất cả, mất cả hai đứa con, gia đình cũng không còn. Ngay cả ngừoi đàn ông cô đã hi sinh cả thanh xuân của mình để chấp nhận làm lẽ cũng không đoái hoài đến mình, có lẽ cái chết chính là sự giải thoát nhanh nhất dành cho Kiều, cô chỉ mong nhanh đến ngày thi hành án để kết thúc cuộc đời vô vị này của mình. Tiền tài, danh vọng, ganh đua cả một đời, cuối cùng chỉ còn lại một nấm mồ vô chủ mà thôi.
Sau khi toà tuyên án xong, Thắng dắt tay Liên và Cường tiến ra xe để quay về. Từ phía sau có tiếng người gọi giật lại:
“Liên ơi! Liên! Chờ mế với!”
Là bà Hồng. Bân phải đỡ bà bước tập tễnh từng bước tiến về phía 3 người nhà họ. Bà Hồng không dám nhìn thẳng vào mặt Liên, bà nắm tay Liên rồi đặt vào đó một cuốn sổ tiết kiệm. Bà nói nhỏ chỉ đủ để Liên nghe thấy:
“Những gì là của con con xứng đáng được nhận. Thi thoảng cho mế đón cháu về nha con.”
Nói xong bà gạt nước mắt quay người rời đi. Bân dìu bà bước ra phía ngoài nơi dòng người đang nối đuôi nhau ra về. Còn lại gia đình Liên đứng đó, có chút hơi bất ngờ trước hành động của bà Hồng. Liên còn chưa biết mình nên làm gì, số tiền này Liên chưa một lần nghĩ tới, cũng không một lần có ý định tranh giành. Thắng giang tay ôm cả hai mẹ con Liên vào lòng rồi bảo:
“Của bà nội cho Cường, để đó sau này lớn lên con nó sẽ toàn quyền quyết định. Chúng ta đi về nhà thôi.”
Hết!