Sau vụ tai nạn của chú Tùng, chú Tuấn ôm cái lọ lên đường tìm thầy gỡ yểm! Như sợ rằng đây có thể là lần cuối cùng nhìn thấy người thân và quê hương. Chú dành hẳn ra một ngày để đi chào họ hàng, bà con hàng xóm láng giềng, rồi lên mộ của người nhà mà khấn vái. Chú đi bộ khắp mọi lẻo đường rồi ghi nhớ lại trong đầu của mình. Để nếu như có lỡ chết ở đâu đó chú còn biết đường về nhà…
Ngày chú đi, bà Huyết lẽo đẽo chạy theo nắm chặt tay chú bịn rịn nửa muốn con đi nửa không. Cô Hương giận dỗi với quyết định của chồng, cô không thèm chạy ra tiễn chú nhưng đứng thập thò ở cửa mà ngóng bóng chú bước mỗi lúc một xa. Khi bóng chú khuất rồi cô ngồi thụp xuống nước mắt lã chã.
Bố em là người chở chú ra huyện bắt xe. Bố hỏi chú “Đi đâu?”. Chú lắc đầu nói “Chưa Biết!”
7 tháng đã trôi qua không một tin tức. Cô Hương đau đớn lập bàn thờ cho chồng! Ngày cô lập bàn thờ, nhà em ai cũng qua khuyên cô bình tĩnh. Đã rất lâu rồi em không qua nhà cô, căn nhà thiếu tiếng người mà trở lên lạnh ngắt. Đã thế bàn thờ của chú và thằng Giang thằng Giảng nằm ở giữa nhà. Cái bóng đèn nhót màu đỏ rực rọi thẳng vào khung hình thờ làm tăng thêm vẻ rùng rợn u ám hơn cho căn nhà.
Một thời gian sau, đúng vào độ mùa lúa chín thì chú về. Khỏi phải nói là cô Hương bà bà Huyết vui mừng cỡ nào. Chú dẫn theo một người, giới thiệu là ông Sáu Gan. Ông Sáu này có vẻ là một người khá phô trương, bộ quần áo ông mặc chỉ cần nhìn cũng đủ biết ông là người làm việc về cõi âm. Quê của ông ở mãi tận cuối cùng bản đồ Việt Nam_Cà Mau!
Chú kể rằng ông Sáu Gan này là thầy giỏi nhất trong tất cả các thầy mà chú đã gặp trong gần 1 năm qua. Khi ông Sáu nhìn thấy những đồ vật chú để trong lọ thì ông khẳng định rằng nhà chú bị trấn yểm “Tuyệt tự tuyệt tôn”.(Tức là dòng họ sẽ không có người nỗi dõi). Ông Sáu còn nói rằng trong giới bùa ngải, khi đã tu luyện và trấn yểm vào vật nào, người nào, nhà nào thì người thầy trấn yểm phải rất cao tay. Bởi nếu không cao tay mà để ai đó phá được yểm thì ông thầy đó sẽ bị yểm ngược lại. Ông cầm các đồ vật trong cái lọ lên và nói rằng, những đồ vật này đều là vật đã bị yểm nhưng không phải là mấu chốt trong việc phá yểm. Muốn phá được yểm phải dẫn ông đi cùng. Bởi khả năng cao người ta đã trấn yểm tới long mạch vùng đất nhà chú.
Mới về tới đầu ngõ nhà bà Huyết, nhìn thấy bụi tre ông Sáu cười phá lên mà nói thẳng vào trong bụi tre rằng “Bụi tre này bị yểm để con ma nữ lộng hành!”. Rồi ông cứ thế đi khắp ngóc này ngách kia kiểm tra tình hình. Người dân thấy sự lạ bu đến nhà bà Huyết ngày một đông.
Đợi đúng 12h trưa, theo như lời ông Sáu thì đó là giờ đứng bóng, giờ ma quỷ dễ xuất dễ nhập nhất. Ông nói chú Tuấn khiêng cái bàn ra gần bụi tre rồi để sừng trâu, sợ dây thừng và 8 chuỗi cước lên trên mặt bàn. Còn bà Huyết có nhiệm vụ đi quanh mảnh đất của bà mà cắm thật nhiều nhang xuống. Sau khi xong xuôi ông đứng quay mặt vào cái bàn mà đọc chú rất lâu. Đọc xong chú ông lấy tay với lấy 8 sợi dây cước mà gồng mình tháo từng đồng xu ra. Những sợi cước mỏng manh như có vật gì vô hình cứ quằn mình giật lại ngăn cản ông Sáu. Ông Sáu đấu tranh, miệng vừa đọc chú tay vừa ra sức gỡ từng đồng xu khiến tay ông bị bật máu chảy ướt đẫm vạt áo dài làm lễ. Mặt ông Sáu nhăn nhó đầy đau đớn, cuối cùng 8 chuỗi đồng xu cũng được ông tháo ra. Những đồng xu ấy tháo ra đến đâu ông đặt lần lượt xuống mặt bàn mà tự chạy lại với nhau như có lực hút của nam châm rồi ráp lại thành hình một cô gái. Mọi người đứng chứng kiến liên tục dụi vào mắt mình vì những điều khó tin ấy. Giờ đến lượt ông gỡ những nút thắt trên sợi dây thừng. Ông Sáu quay qua hỏi chú Tuấn nhưng cái giọng điệu phô trương như muốn hỏi cả thiên hạ “Cậu Tuấn, cậu đếm tôi coi trên sợi dây thừng này có phải 8 nút thắt không?” Chú Tuấn chạy lại đếm rồi trả lời “Dạ vâng, 8 nút!”… “Cậu có biết 8 nút thắt này và 8 sợi dây cước kia tượng trưng cho cái gì không?”. Chú Tuấn đăm chiêu suy nghĩ đôi ba giây rồi lắc đầu. Ông Sáu cười ha hả “Là 8 mạng thằng đàn ông nhà chú!”. Nói rồi ông quay qua miệng đọc tiếp những câu chú rồi gỡ từng nút thắt trên sợi dây thừng. Gỡ xong ông nói chú Tuấn cầm vào bếp ném vào lửa cho cháy! Còn cặp sừng trâu ông nói :”Cậu cho tôi, tôi đem về làm đồ trang trí ở phòng khách cho đẹp!”. Câu nói của ông khiến những người đúng đó thêm phần kiêng nể.
Lễ xong ông quay qua nhìn vào bụi tre nói với chú Tuấn :”Long mạch nhà cậu bị trấn yểm mở lối cho con ma nữ đang đứng ở bụi tre kia ra vào thoải mái!.” Ông vừa nói mặt ông vừa hất vào bụi tre như muốn nói cho mọi người biết rằng con ma nữ đang đứng đó! Nghe ông Sáu nói thế những người nãy giờ cố chen lên trước để được đứng gần nhìn ông Sáu làm lễ vội dạt ngược ra sau vì sợ. Ông tiếp lời :” Con ma nữ này cũng to gan thật, có gia phả gì trong cái nhà này mà đòi vào đây ở?.”…nói đến đây ông gọi chú Tuấn lại “Dẫn tôi lên đồng mả, bắt con ma nữ này về lại nhà của nó.” Trước khi lên đồng mả ông móc trong túi đồ nghề của mình ra sợi dây xích, ông quăng nó vào trong bụi tre miệng lẩm bẩm đọc chú. Sau đó ông lôi sợi dây xích từ nhà bà Huyết lên tới tận đồng mả. Người dân tụ tập ngày một đông càng làm cho con người phô trương như ông Sáu phấn khích. Ông quay qua nói với người dân “Con ma nữ này nó không chịu lên trên đồng mả cho tôi làm lễ, nên tôi đành phải lấy sợi dây xích xích cổ nó lại mà lôi đi. Bà con lưu ý đứng tránh xa sợi dây xích ra mà đi.” Nghe ông Sáu nói vậy người dân đồng loạt đứng lùi ra xa vì kinh sợ. Sau khi lên tới phần mộ của cô gái kia, ông ngồi bệt xuống đối diện với đầu sợi xích rồi đọc chú tháo sợi dây xích ra cho con ma nữ. Vừa dứt câu chú thì bà Huyết đứng đó nằm vật ra rồi rú lên cười. Ông Sáu quay qua nói chú Tuấn :”Nó nhập vào mẹ cậu rồi!”…