– 103 – 104 -: Canh Nương (Canh Nương)
Kim Đại Dụng là con nhà thế gia cũ ở Trung Châu (tỉnh Hà Nam), cưới con gái quan Thái thú họ Vưu tên Canh Nương, xinh đẹp mà hiền đức, vợ chồng rất thương yêu nhau. Vì có bọn giặc nổi loạn, mọi người đều bỏ nhà tìm nơi trốn tránh, Kim dẫn gia quyến đi về miền nam. Giữa đường gặp một thiếu niên cũng dắt vợ chạy loạn, tự nói là Vương Thập Bát ở đất Quảng Lăng (huyện Giang Đô tỉnh Giang Tô), tình nguyện dẫn đường. Kim vui mừng, lúc đi lúc nghỉ đều có nhau. Tới Hà Thượng, Canh Nương nói thầm với chồng “Đừng đi chung thuyền với người này. Yđã mấy lần nhìn thiếp, ánh mắt láo liêng mà sắc mặt thay đổi, là người tâm địa khó lường”, Kim ưng thuận.
Nhưng Vương đã ân cần đi tìm thuê một chiếc thuyền lớn, lăng xăng khiêng vác hành lý lên giúp, rất là sốt sắng nên Kim không nỡ từ chối để đi riêng. Lại nghĩ y có đem vợ theo, chắc cũng không có ý gì khác. Vợ Vương cùng ngồi với Canh Nương trong thuyền, thấy ý tứ cũng hiền hậu dịu dàng, Vương thì ngồi trên mũi thuyền trò chuyện rì rầm với chủ thuyền như quen biết thân thiết với nhau từ lâu. Không bao lâu mặt trời lặn mà đường sông quanh co dần dần không còn nhận ra phương hướng, Kim nhìn quanh thấy vắng vẻ hiểm hóc đã hơi ngờ sợ, lát sau trăng mọc, chỉ thấy lau sậy ngút ngàn. Kế thuyền đậu lại, Vương mời cha con Kim ra ngoài ngắm cảnh, thừa cơ xô Kim xuống sông. Cha Kim nhìn thấy định la lên thì bị người chủ thuyền cầm sào gạt xuống nước, cũng chìm luôn. Mẹ Kim nghe tiếng bước ra xem, lại bị gạt rơi xuống nốt, bấy giờ Vương mới kêu cứu. Lúc mẹ bước ra, Canh Nương ở phía sau đã rình thấy mọi việc, kế nghe nói cả nhà chết đuối cũng không có vẻ sợ hãi, chỉ khóc nói “Cha mẹ chồng đều chết, ta biết về đâu?”.
Vương vào thuyền khuyên “Nương tử đừng lo, xin theo ta về Kim Lăng (tỉnh thành Giang Tô), nhà ta có ruộng đất đủ sống, quyết không có gì đáng ngại”. Nàng nín khóc nói “Nếu được như vậy là ta thỏa nguyện rồi”, Vương cả mừng, đối xử với nàng hết sức ân cần. Tối đến kéo nàng đòi giao hoan, nàng nói thác là đang kỳ kinh, Vương bèn về chỗ vợ nằm. Đến hết canh một, hai vợ chồng cãi nhau ầm lên, không biết vì chuyện gì, chỉ nghe vợ nói “Ngươi làm như thế thì e sấm sét đánh nát đầu ra”. Vương đánh vợ, vợ la lớn “Chết thì thôi chứ ta quyết không làm vợ thằng giặc giết người”. Vương tức giận gầm lên, túm lấy vợ lôi ra ngoài, nghe một tiếng ùm, rồi Vương kêu lên là vợ mình ngã xuống sông chết đuối rồi.
Không bao lâu tới Kim Lăng, Vương dẫn Canh Nương về nhà, lên sảnh đường ra mắt mẹ. Mẹ ngạc nhiên vì không phải là con dâu cũ, Vương nói “Vợ con chết đuối, mới lấy người này”. Về tới phòng riêng, Vương lại muốn giở trò này nọ, Canh Nương cười nói “Đàn ông ngót ba chục tuổi mà còn chưa biết xử sự. Cho dù là mua tỳ thiếp thì đêm thành thân cũng phải có chén rượu nhạt, nhà anh giàu có thì chuyện ấy cũng không khó, chứ lặng ngắt nhìn nhau thì còn ra thể thống gì?”. Vương mừng rỡ bèn dọn tiệc đối ẩm, Canh Nương nâng chén mời rất ân cần. Vương dần say, chối từ không uống nữa, nàng bèn rót một chén lớn gượng lả lơi mời mọc, Vương không nỡ chối từ liền uống cạn, lúc ấy say mèm, cởi tuột quần áo ra hối đi ngủ. Canh Nương dọn mâm tắt đèn rồi nói thác là đi tiểu, ra ngoài phòng cầm dao trở vào, trong bóng tối lấy tay mò lên cổ Vương. Vương còn vuốt tay nàng lè nhè lả lơi, Canh Nương ra sức cứa mạnh một nhát nhưng Vương không chết ngay, rú lên vùng dậy, nàng bồi thêm nhát nữa mới chết.
Mẹ Vương nghe có tiếng chạy qua hỏi, nàng cũng giết nốt. Em trai Vương là Thập Cửu biết chuyện chạy tới, Canh Nương tự biết không thoát được vội tự tử nhưng lưỡi dao đã cùn không cứa sâu được, vội mở cửa bỏ chạy. Thập Cửu đuổi tới thì nàng đã nhảy xuống ao rồi. Thập Cửu gọi láng giềng cứu lên thì nàng đã chết nhưng dung mạo vẫn tươi đẹp như khi còn sống. Mọi người cùng vào xem xác Vương, thấy có bức thư trên cửa sổ, mở ra xem thì là thư của nàng kể rõ sự oan khổ, đều cho rằng nàng trinh liệt, bàn nhau góp tiền chôn cất. Sáng ra có mấy ngàn người tới xem, nhìn thấy dung mạo nàng đều vái lạy. Trọn ngày thì quyên được trăm lượng vàng, chôn nàng ở phía nam thành, những kẻ hiếu sự còn đem mão ngọc áo bào liệm cho nàng, xây mộ rất to cao.
Lúc trước Kim sinh rơi xuống sông bám được tấm ván trôi trên sông nên không chết, chiều hôm sau trôi tới Hoài Thượng thì gặp một chiếc thuyền nhỏ vớt lên. Thuyền này là của nhà phú hộ họ Doãn đặt trên sông để cứu người chết đuối, Kim tỉnh lại rồi bèn tới tạ ơn ông Doãn, ông đối xử rất tử tế, giữ Kim ở lại nhờ dạy con mình học. Kim không rõ cha mẹ sống chết ra sao, đang còn ngần ngại chưa quyết thì có người tới thưa ông Doãn rằng vừa vớt được xác hai ông bà già. Kim ngờ là cha mẹ mình, chạy tới nhìn mặt quả đúng. Ông Doãn sắm quan tài chôn cất cho, sinh đang đau đón khóc lóc, lại nghe báo vớt được một người đàn bà, tự nói chồng mình là Kim sinh. Kim giật mình gạt lệ ra xem thì người đàn bà đã tới, không phải Canh Nương mà là vợ Vương Thập Bát. Nàng nhìn Kim khóc lớn, nói xin đừng bỏ nhau. Kim nói “Ta đang lúc lòng dạ rối bời, còn rảnh đâu mà lo cho vợ người khác?”, nàng càng đau xót. Doãn hỏi rõ đầu đuôi, mừng là đạo trời báo ứng, khuyên Kim lấy nàng làm vợ. Kim chối từ nói đang có tang, vả lại đang định báo thù cho cha mẹ, sợ nàng yếu ớt sẽ bị liên lụy. Nàng nói “Nói như chàng thì giả như Canh Nương còn sống chàng cũng vì việc cư tang và báo thù mà bỏ hay sao?”. Doãn khen lời ấy, xin tạm thu dưỡng nàng thay, Kim mới ưng thuận. Hôm chôn cất cha mẹ Kim nàng cũng mặc tang phục khóc lóc như là cha mẹ chồng thật.
Chôn cất xong, Kim định giắt dao đeo bị xin ăn tìm tới Quảng Lăng, nàng ngăn lại nói “Thiếp họ Đường, tổ tiên vốn ở Kim Lăng, cùng làng với gã lang sói ấy, lúc trước y nói ở Quảng Lăng là dối trá. Vã lại bọn thủy khấu chốn sông hồ có một nửa là đồng đảng của y, coi chừng thù không trả được mà rước vạ vào thân”. Kim ngần ngừ không biết tính sao, chợt có tin đồn về chuyện cô gái giết chết kẻ thù, khắp một vùng sông hồ đều xôn xao, nói rõ ràng cả tên họ. Kim nghe được một phen hả dạ nhưng càng đau đớn, chối từ không lấy Đường thị, nói “May mà ta không bị mang nhục, nhưng trong nhà có người vợ trinh liệt như thế thì đâu nỡ phụ lòng mà cưới vợ nữa”. Đường thị nói đã bàn bạc thành chuyện rồi, không chịu giữa đường chia tay, nguyện làm nàng hầu vợ lẽ.
Gặp lúc có Phó Tướng quân họ Viên quen biết Doãn, nhân lên đường phó nhiệm ở miền tây ghé thăm, gặp Kim rất thích, mời theo làm Ký thất. Không bao lâu sau giặc cướp nổi loạn phạm vào kinh đô, Viên đánh dẹp lập công lớn, Kim cũng tham dự việc quân cơ, được bảo cư phong chức Du kích trở về, lúc ấy vợ chồng mới làm lễ thành thân. Vài hôm sau Kim dắt vợ đi Kim Lăng viếng mộ Canh Nương, ngang huyện Trấn Giang (tỉnh Giang Tô) định lên Kim Sơn ngắm cảnh. Đang xuôi dòng chợt có chiếc thuyền đi ngược chiều, trong có một bà già và một thiếu phụ, ngạc nhiên vì thấy thiếu phụ rất giống Canh Nương. Thuyền Kim lướt mau qua, thiếu phụ nhô ra cửa sổ nhìn Kim, càng thấy thần thái giống nàng. Kim kinh ngạc ngờ vực không dám đuổi theo hỏi, vội gọi lớn “Nhìn lũ vịt con đang bay trên trời kìa” Thiếu phụ nghe thấy cũng lớn tiếng gọi “Chó con lại muốn ăn thịt mèo sao?”, đó là lời nói lóng của vợ chồng vẫn đùa nhau trong phòng riêng ngày xưa.
Kim giật mình cho quay chèo đuổi theo, tới gần thì quả là Canh Nương. Con hầu đỡ Canh Nương qua thuyền Kim, vợ chồng ôm nhau khóc nức nở, người trên thuyền đều thương cảm. Đường thị lấy lễ vợ thiếp chào Canh Nương, Canh Nương ngạc nhiên hỏi, Kim bèn kể lại mọi chuyện. Canh Nương cầm tay Đường thị nói “Trò chuyện một lần với nhau trên thuyền, lòng vẫn không quên, không ngờ nay lại được Hồ Việt một nhà. Đội ơn thay mặt chôn cất cha mẹ chồng, lẽ ra ta phải tạ ơn trước, sao lại làm lễ với nhau như thế?”. Bèn so tuổi tác Đường thị kém một tuổi nên làm em.
Trước là canh Nương đã được chôn cất, cũng không tự biết đã bao lâu, chợt nghe có người gọi nói “Canh Nương, chồng ngươi không chết đâu, rồi vợ chồng sẽ được sum họp”, liền thấy như vừa tỉnh mộng. Sờ thấy bốn phía đều là vách tường, mới hiểu ra rằng mình chết đi đã được chôn, nhưng chỉ thấy hơi buồn bực chứ cũng không có gì khổ sở. Có bọn thiếu niên bất lương biết nàng có nhiều vật tùy táng quý giá bèn đào mộ phá quan tài, đang định tìm tòi nhặt nhạnh thì thấy Canh Nương vẫn còn sống, cả bọn đều khiếp đảm. Canh Nương sợ chúng làm hại nên năn nỉ, nói “May có các ông tới nên ta lại được nhìn thấy mặt trời, bao nhiêu trâm vòng xin cứ lấy hết, xin đem bán ta cho chùa làm ni cô thì có thể cũng được thêm ít nhiều, ta không nói lộ ra với ai đâu”
Bọn trộm dập đầu nói “Nương tử trinh liệt, thần người đều khâm phục. Bọn tiểu nhân chẳng qua vì nghèo túng hết cách sống mà phải làm việc bất nhân này, chỉ cần nương tử không nói lộ ra là may lắm rồi, chứ đâu dám bán nương tử làm ni cô”. Canh Nương đáp “Đó là tự ta muốn mà”. Một tên nói “Cảnh phu nhân ở Trấn Giang góa chồng mà không có con, nếu gặp được nương tử ắt là mừng lắm”. Canh Nương tạ ơn rồi tự tháo hết các vật châu báu trang sức ra đưa, bọn trộm không dám nhận. Nàng cố ép, cả bọn cùng lạy tạ nhận lấy rồi chở nàng đi. Tới nhà Cảnh phu nhân, họ nói thác rằng nàng bị gió bạt thuyền lạc tới đây. Cảnh phu nhân nhà giàu có mà lớn tuổi góa chồng vò võ một mình, gặp Canh Nương cả mừng, coi như con đẻ, hôm ấy là hai mẹ con đi chơi Kim Sơn trở về. Canh Nương kể hết đầu đuôi xong, Kim bèn qua thuyền lạy mẹ. Phu nhân tiếp đãi như con rể, mời tới nhà chơi mấy ngày mới cho về từ đó vợ chồng qua lại nhà bà luôn luôn.
Dị Sử thị nói: Trước biến cố lớn, kẻ dâm thì cầu sống mà người trinh thì thà chết, kẻ sống thì khiến người ta xốn mắt, người chết thì khiến người ta rơi lệ vậy. Đến như cười nói không sợ, vung đao báo thù thì các bậc trượng phu nghĩa liệt ngàn xưa cũng có mấy người sánh được? Ai nói đàn bà con gái không thể theo kịp bậc anh hùng.
104. Cung Mộng Bật
(Cung Mộng Bật)
Liễu Phương Hoa người Bảo Định (tỉnh thành Hà Bắc), giàu có nhất vùng, tính phóng khoáng hiếu khách, trên tiệc thường có hàng trăm người. Giúp người nguy cấp thì ngàn vàng cũng không tiếc, bạn bè khách khứa vay mượn không trả là thường. Liễu chỉ có một người khách tên Cung Mộng Bật, người Thiểm Tây là không hề nhờ vả xin xỏ gì, mỗi lần tới chơi thì ở lại cả năm, ngôn ngữ trang nhã, phong thái tiêu sái, Liễu cùng ăn ở chuyện trò nhiều nhất. Con trai Liễu tên Hòa, lúc ấy còn nhỏ, gọi Cung là chú, Cung cũng thích đùa giỡn với Hòa. Mỗi lần Hòa ở trường học về thì cùng gỡ gạch lát dưới nền nhà lên vùi đá sỏi xương giả như chôn giấu vàng bạc làm vui. Nhà có năm gian, đào bới chôn giấu khắp cả. Mọi người cười là tính khí trẻ con nhưng Hòa lại rất yêu thích Cung, thân thiết với Cung hơn tất cả mọi người.
Hơn mười năm sau nhà sa sút dần, không thể thỏa mãn lòng mong cầu của nhiều người nên khách thưa dần, nhưng vẫn thường có mười mấy người hội họp chuyện trò đến sáng. Đến lúc Liễu già thì nhà ngày càng sa sút, nhưng còn cắt ruộng đất bán được tiền mà đãi khách. Hòa cũng phung phí, theo gương cha mời thết đám bạn nhỏ, Liễu cũng không ngăn cấm. Không bao lâu Liễu bệnh chết, nhà nghèo đến nỗi không mua được quan tài. Cung bèn bỏ tiền túi ra lo liệu việc tang cho Liễu, Hòa càng biết ơn, việc lớn nhỏ gì cũng nhờ chú Cung. Mỗi lần Cung đi đâu về ắt có cất gạch đá trong tay áo, vào tới nhà thì ném vào những chỗ khuất, chẳng ai hiểu để làm gì. Hòa trò chuyện với Cung thường lo nghèo khổ, Cung nói “Cháu không biết cái khó nhọc của việc kiếm tiền, đừng nói là không có tiền, dù có ngàn vàng đưa cháu cũng sẽ hết sạch ngay. Kẻ nam nhi chỉ lo không tự lập thân được chứ lo gì nghèo?”.
Một hôm Cung từ giã, Hòa khóc dặn trở lại mau, Cung ừ rồi đi. Hòa nghèo quá không đủ sống, trong nhà còn món gì cứ đem cầm bán, dần dần hết sạch. Hàng ngày mong Cung tới lo toan giúp đỡ cho, nhưng Cung vắng tăm bặt tích như hạc vàng một đi không về lại. Trước kia lúc Liễu còn sống đã hỏi con gái họ Hoàng ở huyện Vô Cực (tỉnh Hà Bắc) cho Hòa, nhà ấy cũng giàu có, sau nghe tin Liễu sa sút nên ngầm có ý hối hôn. Khi Liễu chết Hòa báo tang Hoàng cũng không tới phúng điếu, còn nghĩ vì đường xa nên bỏ qua. Hòa mãn tang xong, mẹ sai tự tới nhà nhạc gia xin hẹn ngày cưới, có ý mong Hoàng thương xót giúp đỡ cho. Hòa tới, Hoàng nghe nói áo cũ giày rách bèn bảo người giữ cổng không cho vào, nhắn “Trở về lo được trăm lượng vàng hãy tới, nếu không từ nay xin thôi”. Hòa nghe thế khóc lớn, có bà già họ Lưu ở nhà đối diện với Hoàng thương xót đem cơm cho ăn, lại tặng ba trăm đồng tiền, an ủi bảo về.
Mẹ Hòa cũng buồn bã uất ức nhưng không biết làm sao, nhân nhớ tới khách khứa ngày xưa mười người có tới tám chín vay mượn chưa trả, liền bảo Hòa chọn những kẻ giàu có mà tới xin họ giúp đỡ. Hòa nói “Trước kia họ giao du với nhà ta chỉ vì tiền bạc của nhà ta thôi. Nếu con giong ngựa hay ngồi xe lớn thì dù mượn ngàn lượng vàng cũng không khó, nhưng nay nhà ta nghèo khó thế này, còn ai nhớ ơn xưa nghĩa cũ. Vả lại cha cho người ta vay không hề làm giấy tờ gì, khó có bằng cớ mà đòi nợ”. Mẹ cứ ép, Hòa vâng lời, đi suốt hơn hai mươi ngày không đòi được một đồng, chỉ có người kép hát Lý Tứ xưa thường được Liễu giúp đỡ nghe chuyện tới tặng một đồng vàng. Mẹ con cùng khóc lớn, từ đó thôi không trông mong gì ai nữa. Cô gái họ Hoàng đến tuổi lấy chồng, nghe cha dứt tình với Hòa thầm cho là không phải. Hoàng muốn gả cho người khác, nàng khóc nói “Liễu lang không phải sinh ra đã nghèo, giả như nay giàu hơn thì kẻ hỏi cưới con có cướp được của chàng không? Nay thấy nghèo lại bỏ thì bất nhân lắm”.
Hoàng không vui, tìm đủ cách khuyên mà rốt lại cũng không làm nàng lay chuyển được. Hai vợ chồng cùng tức giận, sớm tối chửi mắng, cô gái cũng vẫn thế. Không bao lâu, đang đêm có bọn cướp vào nhà, vợ chồng Hoàng bị nướng dùi đốt thịt tra khảo chết đi sống lại, bao nhiêu của cải đều bị cướp sạch. Thấm thoát qua ba năm, nhà càng sa sút. Có nhà buôn nghe tiếng cô gái đẹp, xin nộp sính lễ năm mươi lượng vàng, Hoàng thấy nhiều tiền bèn ưng thuận, định ép con gái bằng được. Cô gái đoán biết, mặc áo rách bôi đen mặt, nhân đêm bỏ trốn, xin ăn dọc đường, trải hai tháng mới tới Bảo Định, hỏi thăm nhà Hòa rồi tìm thẳng vào. Mẹ Hòa ngỡ là vợ kẻ ăn mày bèn xua đuổi, nàng nức nở thưa rõ, bà nắm tay nàng chảy nước mắt nói “Sao con lại ra nông nổi này”. Cô gái lại khóc lóc kể hết đầu đuôi, mẹ con Hòa đều khóc. Kế múc nước cho nàng tắm rửa, thấy nhan sắc xinh đẹp, mặt mũi sáng sủa, mẹ con cùng mừng rỡ.
Nhưng nhà ba miệng ăn, mỗi ngày chỉ được một bữa, mẹ khóc nói “Mẹ con ta phải chịu cực khổ đã đành, chỉ thương cho nàng dâu thảo của ta thôi”. Nàng cười an ủi bà rằng “Con dâu của mẹ lúc trong đám ăn mày đã nếm đủ mùi cực khổ, hôm nay nhìn lại thấy như thiên đường khác với địa ngục vậy”, mẹ mới vui vẻ. Một hôm cô gái vào gian nhà bỏ không thấy cỏ dại mọc lan khắp nơi, tới phòng trong thì bụi bặm phủ đầy. Trong góc tối có vật gì đó chất thành đống, bước vào thấy vướng chân, nhặt lên xem thì toàn là bạc ròng, giật mình chạy về nói với Hòa. Hòa theo nàng vào xem, thì những gạch ngói ngày xưa Cung ném vào đó đều trở thành bạc nén trắng xóa. Nhân nhớ lại lúc còn nhỏ thường cùng Cung chôn gạch đá trong nhà, biết đâu đều là vàng bạc. Nhưng nhà cũ đã đem cầm cho láng giềng, vội qua chuộc lại thì thấy gạch lát nền đã vỡ cả, những chỗ chôn gạch ngói ngày xưa đều lộ cả ra, vô cùng thất vọng. Đến khi đào tìm dưới đất thì thấy toàn là bạc ròng sáng loáng, trong chốc lát trở thành giàu có ức vạn. Nhờ vậy chuộc ruộng vườn thuê tôi tớ, nhà cửa hoa lệ còn hơn ngày xưa.
Hòa vì thế hăng hái tự nhủ “Nếu không cố gắng lập thân, thật là phụ lòng chú Cung của ta”, rồi ra sức học hành, ba năm sau đỗ Cử nhân. Bèn đích thân đem trăm lượng vàng tới tạ ơn bà Lưu, y phục rực rỡ lóa mắt, mười mấy tùy tùng khỏe mạnh đều cưỡi ngựa đẹp như rồng. Bà Lưu chỉ có một gian nhà, khách phải ngồi cả lên giường, người ngựa ồn ào vang động cả xóm. Hoàng từ khi con gái trốn đi, người nhà buôn đòi lại món tiền sính lễ, nhưng đã tiêu mất một nửa nên phải bán nhà mới trả được. Vì thế trở thành cùng quẫn như Hòa ngày xưa, nay nghe rể cũ giàu có sang trọng chỉ đóng cửa tự thương thân mà thôi. Bà Lưu mua rượu dọn tiệc đãi Hòa, nhân kể con gái Hoàng hiền, tỏ ý tiếc vì nàng bỏ nhà đi mất, rồi hỏi Hòa lấy vợ chưa, Hòa đáp rồi. Ăn uống xong, Hòa cố mời bà đi xem mặt vợ mình, rồi chở cùng về.
Tới nhà, nàng ăn mặc lộng lẫy bước ra, tỳ nữ xúm quanh như tiên, gặp nhau cùng sửng sốt, rồi cùng nhắc lại chuyện cũ, nhân hỏi thăm tin tức cha mẹ. Bà Lưu ở lại vài ngày, được tiếp đãi rất tử tế, may sắm quần áo mới rồi cho đưa về. Bà qua nhà Hoàng, kể lại tin tức cô gái và nhắn lời nàng hỏi thăm, vợ chồng cả kinh. Bà Lưu khuyên tới thăm con gái nhưng Hoàng có vẻ ngần ngại, kế khổ cực quá không chịu nổi nên bất đắc dĩ phải đi Bảo Định. Tới nơi thấy cổng kín tường cao, người giữ cổng trừng mắt nhìn, suốt ngày không nhắn gì được. Mãi sau có một bà già đi ra, Hoàng nhũn nhặn năn nỉ, tự nói họ tên, nhờ lén báo cho con gái biết.
Một lát bà già trở ra dắt Hoàng vào căn nhà phụ, nói “Nương tử rất muốn gặp ông một lần nhưng sợ lang quân biết nên phải chờ cơ hội thuận tiện. Ông tới đây bao lâu, đã ăn gì chưa?”, Hoàng được dịp kể lể nỗi khổ. Người đàn bà đem một bầu rượu, hai đĩa thức ăn bày ra trước mặt Hoàng, lại đặt lên năm đồng vàng, nói “Lang quân đang ăn tiệc ở trong phòng, e nương tử không tới được. Sáng mai ông nên đi sớm, chớ để lang quân biết”. Hoàng vâng dạ, sáng dậy mang gói ra thì cổng chưa mở, phải đứng chờ. Chợt có tiếng ồn ào nói ông chủ đi ra, Hoàng định nép mình tránh mặt nhưng Hòa đã nhìn thấy, ngạc nhiên hỏi là ai. Tất cả gia nhân đều im lặng, Hòa giận nói “Ắt là kẻ gian, cứ bắt giải lên quan!”. Chúng dạ vang đổ ra trói Hoàng vào gốc cây, Hoàng vừa sợ vừa thẹn không biết nói gì. Không bao lâu người đàn bà hôm qua ra quỳ xuống thưa “Đây là cậu ruột ta, tới lúc chặp tối nên chưa kịp thưa với ông chủ?”, Hòa bèn sai cởi trói. Bà già dẫn Hoàng ra, nói “Vì ta quên dặn người giữ cổng nên có chuyện rắc rối. Nương tử nhắn rằng lúc nào tưởng nhớ cứ nói bà nhà giả làm người bán hoa đi với bà Lưu tới”.
Hoàng vâng dạ, về nhà kể chuyện với vợ, bà nhớ con gái vội qua nói với bà Lưu, bà Lưu bèn cùng đi, tới nhà Hòa qua hơn mười lớp cửa mới tới chỗ con gái ở. Nàng mặc gấm vóc, đeo châu ngọc khắp mình, hương thơm ngào ngạt, thỏ thẻ kêu một tiếng thì tỳ nữ tớ gái xúm tới nhắc ghế mang gối, pha trà mời khách. Mẹ con nói tiếng lóng chuyện trò, nhìn nhau rưng rưng nước mắt. Đêm tới dọn phòng cho hai bà già nghỉ, thấy nệm ấm gối êm, nhà mình năm xưa tuy giàu có cũng chưa từng dùng qua. Lưu lại năm ba ngày, nàng đối xử rất chu tất, bà dẫn nàng ra chỗ vắng khóc lóc hối hận về việc sai trái ngày trước. Nàng nói “Mẹ con ta thì có lầm lỗi nào không bỏ qua được, nhưng chồng con tức giận không nguôi, chỉ sợ chàng biết thôi”, nên cứ khi Hòa tới thì bà liền tránh mặt.
Một hôm đang ngồi chơi chợt Hòa bước vào nhìn thấy nổi giận quát “Mụ nhà quê nào lại dám ngồi ngang hàng với nương tử thế kia? Nắm đầu tống cổ ra cho ta”. Bà Lưu vội bước lên nói “Đó là Vương tẩu làm nghề bán hoa, có họ với già, xin ông tha lỗi”. Hòa bèn chắp tay tạ lỗi rồi ngồi xuống nói “Bà đến chơi mấy hôm mà ta bận quá chưa hỏi chuyện được, lão súc sinh họ Hoàng còn sống không?”. Bà Lưu đáp “Cả hai ông bà vẫn mạnh khỏe, có điều nghèo lắm, quan nhân quá giàu sang sao không nghĩ tình cha vợ chàng rể một chút”. Hòa đập bàn nói “Năm xưa không có bà thương xót cho bát cháo thì ta làm sao về tới được quê quán, nay còn muốn bắt lão mà lột da ra chứ nghĩ tình cái gì?”, nói tới đó căm giận quá dậm chân đứng dậy chửi mắng. Cô gái bực tức nói “Họ dẫu bất nhân cũng là cha mẹ ta. Ta từ xa xôi tìm tới đây rách chân nát gót, cũng tự thấy không phụ lòng chàng, sao chàng trước mặt con mà chưi mắng cha, khiến người ta không chịu nổi”, Hòa mới nguôi giận đứng dậy bỏ đi. Vợ Hoàng thẹn tím mặt từ giã ra về, cô gái lấy hai chục đồng vàng đưa riêng cho mẹ. Sau khi bà về, không có tin tức gì nữa.
Cô gái thương nhớ cha mẹ quá, Hòa bèn sai người tới mời, hai vợ chồng tới vẫn có vẻ thẹn thùng áy náy. Hòa xin lỗi nói “Năm trước ông bà tới chơi lại không nói rõ, khiến ta mắc tội rất nhiều”, Hoàng chỉ dạ dạ. Hòa may sắm quần áo mới cho, lưu lại hơn một tháng. Hoàng vẫn thấy áy náy, mấy lần xin về. Hòa tặng một trăm lượng vàng, nói “Người nhà buôn trước kia đưa năm mươi lượng, nay ta xin đưa gấp đôi”. Hoàng thẹn toát mồ hôi nhận lấy. Hòa cho xe ngựa đưa về, cuối đời Hoàng sống cũng hơi dư dật.
Dị Sử thị nói: Sau khi Ung Môn* khóc xong thì giày son vắng cổng khiến người ta uất ức đóng cửa tuyệt giao. Thế nhưng bạn tốt chôn cất, đá hóa ra vàng, không thể nói rằng đó không phải là sự báo đáp cho người khẳng khái được. Còn kẻ phòng khuê chỉ ngồi mà hưởng, nghiễm nhiên như phi tần trong cung vua, nếu không phải là người trung trinh kỳ lạ như nàng họ Hoàng thì ai có thể hưởng thụ như vậy mà không xấu hổ? Tạo vật không giáng họa ban phúc sai là như thế đấy.
*Ung Môn: Hoàn đàm tân luận chép Ung Môn Chu cầm đàn tới ra mắt Mạnh Thường quân nói “Ta trộm cho rằng túc hạ có điều đau buồn. Đạo trời vốn không thường, ngàn vạn năm sau tôn miếu ắt không ai thờ cúng, đài cao đã nghiêng, ao sâu đã lấp, trên mộ đầy gai góc, chồn cáo làm hang bên trong, trẻ chăn trâu giẫm đạp lên ca hát mà nói sự giàu sang của Mạnh Thường quân cũng chỉ thế này thôi sao”. Mạnh Thường quân ngậm ngùi rơi lệ, Ung Môn Chu nhân đó gảy thành khúc đàn. Đây ý nói người giàu sang nhưng đã chết cũng không ai đoái hoài tới nữa.