– 105 – 106 -: Người Thiếp Hồ (Hồ Thiếp)
Lưu Động Cửu người huyện Lai Vu (tỉnh Sơn Đông) làm quan ở Phần Châu (tỉnh Sơn Tây), ngồi một mình trong dinh nghe ngoài sân có tiếng cười nói, dần tới gần rồi vào trong phòng. Nhìn ra thì là bốn cô gái, một nàng độ bốn mươi tuổi, một nàng khoảng ba mươi, một nàng chừng hai mươi tư hai mươi lăm, cuối cùng là một nàng còn để tóc xõa. Cả bốn đứng trước kỷ nhìn nhau cười, Lưu vốn biết trong dinh nhiều hồ nên không ngó tới. Giây lát, nàng để tóc xõa rút ra chiếc khăn hồng đùa ném lên mặt Lưu. Lưu nhặt lấy quăng lên cửa sổ, vẫn không thèm nhìn. Bốn nàng cười rồi đi.
Một hôm nàng lớn nhất tới nói với Lưu “Em gái ta có nhân duyên với ông, xin đừng chê là hèn hạ”. Lưu ừ bừa, nàng ấy liền đi. Lát sau cùng một tỳ nữ dẫn nàng để tóc xõa tới, đặt ngồi sánh vai với Lưu rồi nói “Thật là đẹp đôi. Đêm nay động phòng hoa chúc, cố mà hầu hạ Lưu lang, ta về đây”. Lưu nhìn kỹ thấy nàng xinh đẹp vô song, bèn cùng vui vầy. Hỏi tới lai lịch, nàng nói “Thiếp không phải là người, nhưng thật ra cũng là người. Thiếp là con gái quan tiền nhiệm ở đây, bị hồ làm chết, xác chôn trong vườn. Lũ hồ làm phép cho sống lại, cũng biến hóa như hồ vậy”. Lưu thò tay sờ phía sau, nàng hiểu ý cười nói “Chàng định nói là hồ thì có đuôi chứ gì?”, rồi quay người lạỉ nói “Thử sờ xem nào”. Từ đó nàng ở lại luôn, đứng ngồi đều có đứa tỳ nữ ở bên, gia nhân đều tôn kính gọi là bà thứ, tôi tớ lên chào ra mắt đều được thưởng rất hậu.
Gặp dịp sinh nhật của Lưu, khách khứa đông đảo, tính ra tới ba chục mâm, phải có nhiều đầu bếp, đã sức gọi từ trước nhưng chỉ có một hai người tới, Lưu bực tức lắm. Cô gái biết được bèn nói “Đừng lo, số đầu bếp đã không đủ dùng thì cứ cho mấy người tới về luôn cho xong. Thiếp tuy kém cỏi nhưng nấu ba chục mâm cũng chẳng phải khó”. Lưu mừng rỡ, sai mang cá thịt tỏi gừng vào tư thất, gia nhân chỉ nghe tiếng dao thớt khua ran không dứt. Cửa trong đặt một chiếc bàn, những người hầu để mâm lên đó, quay đi quay lại đã đầy thức ăn, bưng xong lại quay lại, hơn mười người đi lại liên tiếp mà lấy bao nhiêu cũng có. Sau cùng người hầu vào gọi lấy bánh canh, bên trong nói “ông chủ không dặn trước, gấp gáp thế này làm sao có được?”. Kế lại nói “Không còn cách nào, đành phải mượn vậy”. Giây lát gọi vào lấy bánh canh, nhìn lại thì thấy đã có hơn ba chục tô bánh canh bốc khói đặt trên bàn. Khách về rồi, nàng nói với Lưu “Phải đưa tiền trả tiền bánh canh cho nhà nọ”. Lưu sai đem tiền tới nhà ấy thì họ mất bánh canh còn đang kinh ngạc, khi người nhà Lưu tới trả tiền mới hết ngờ vực.
Một hôm uống rượu đêm, Lưu chợt thèm rượu nếp đắng Sơn Đông, nàng xin đi lấy rồi ra cửa đi. Giây lát trở về nói “Được một vò ngoài cửa, đủ uống mấy ngày rồi”. Lưu ra xem, quả có một vò, đúng là thứ rượu mới cất ở nhà. Qua vài hôm, phu nhân sai hai người đầy tớ tới Phần Châu, giữa đường một người nói “Nghe nói phu nhân chồn hồ thưởng rộng rãi, chuyến này mà được tiền thưởng ta sẽ mua một cái áo lông chiên”. Nàng ở dinh đã biết cả, nói với Lưu “Người nhà ở quê sắp tới, đáng giận thằng đầy tớ vô lễ, phải trị mới được”. Hôm sau người đầy tớ vừa vào trong thành, đầu đã đau nhức, tới dinh thì ôm đầu kêu gào, mọi người đều bàn đi tìm thầy thuốc. Lưu cười nói “Không cần chữa, đến lúc sẽ tự hết”, mọi người ngờ là y phạm tội với bà thứ.
Người đầy tớ tự nghĩ mới tới đây chưa kịp cởi hành lý ra thì đã làm gì nên tội, nhưng không biết kêu van với ai đành phải bò tới năn nỉ. Trong rèm có tiếng nói “Ngươi gọi phu nhân là đủ rồi, sao còn nói chữ hồ?”. Người đầy tớ sực nhớ ra, lạy lục không thôi. Trong rèm lại nói “Đã muốn có áo lông chiên sao lại vô lễ thế?”, kế nói tiếp “Ngươi khỏi rồi đấy”, dứt câu thì người đầy tớ thấy hết đau, lạy tạ định lui ra, chợt trong rèm ném ra một cái bọc, nói “Đây là một cái áo lông dê non, ngươi cầm đi”, y mở ra xem thì thấy có năm đồng vàng. Lưu hỏi tin nhà, người đầy tớ thưa đều được vô sự chỉ có đang đêm bị mất một vò rượu, tính lại ngày giờ thì đúng vào đêm nàng đi lấy rượu. Mọi người kính sợ nàng có phép thần thông, gọi là Thánh tiên.
Lưu vẽ tranh nàng, lúc ấy Trương Đạo Nhất làm quan Đề học sứ nghe chuyện lạ liền lấy tình đồng hương tới thăm Lưu xin được gặp mặt một lần, nàng từ chối. Lưu đưa bức tranh cho xem, Trương giật lấy đem về treo cạnh chỗ ngồi, đêm ngày khấn khứa “Xinh đẹp như nàng muốn gì chẳng được, sao lại gởi thân cho lão già râu xồm? Hạ quan không thua kém gì Động Cửu, sao không chiếu cố cho nhau một lần”. Nàng ở dinh chợt nói với Lưu “Trương công vô lễ phải trừng phạt một chút”. Một hôm Trương đang khấn khứa thấy như có ai cầm thước đánh mạnh vào trán đau điếng, cả sợ cuốn bức tranh sai người đem trả. Lưu hỏi vì sao trả lại, người ấy giấu việc Trương bị đánh mà bịa chuyện trả lời, Lưu cười hỏi “Trán chủ ngươi có đau không?”, người ấy không dám nói dối phải kể thật.
Không bao lâu sau, rể Lưu là Nguyên sinh tới thăm, xin được ra mắt nhưng nàng từ chối. Nguyên nài nỉ mãi, Lưu hỏi “Con rể nào phải người ngoài, sao cự tuyệt quá thế?”. Nàng đáp “Con rể tới ra mắt ắt phải có gì tặng, nhưng y mong cầu quá lắm, ta tự thấy không làm vừa lòng y được nên không muốn gặp đó thôi”. Kế Nguyên lại cố nài nỉ, nàng hứa mười ngày sẽ cho ra mắt. Đến ngày hẹn Nguyên vào, đứng ngoài rèm chắp tay vái rồi hỏi thăm sức khỏe, chỉ thấy loáng thoáng dung mạo nhưng không dám nhìn kỹ. Kế lui ra, đi được mấy bước cứ ngoảnh lại nhìn chằm chằm, chỉ nghe tiếng nàng nói “Con rể quay lại kìa”, dứt lời cười lớn, lanh lảnh như tiếng cú rúc. Nguyên nghe thấy gân cốt nhũn cả ra, run rẫy tựa mất hồn.
Ra ngoài ngồi hồi lâu mới hơi định thần, bèn nói “Vừa nghe tiếng cười như nghe tiếng sét, thật không biết mình còn sống hay đã chết” Giây lát người tỳ nữ vâng lệnh nàng đem ra hai mươi lượng vàng tặng Nguyên, Nguyên nhận rồi nói “Thánh tiên hàng ngày ở với ông chồng, há lại không biết tính ta phung phí chứ không quen dùng món tiền nhỏ sao?” Nàng nghe thế nói “Ta vẫn biết là thế, nhưng vừa lúc hết tiền, mới rồi cùng bạn bè đi Biện Lương (tỉnh thành Hà Nam) thì thành bị Hà Bá chiếm cứ, kho tàng đều ngập dưới nước, lặn xuống lấy mỗi người chỉ được bấy nhiêu, làm sao đầy được túi tham không đáy của y. Vả lại nếu ta tặng cho thật hậu thì y phúc bạc cũng không thể hưởng được đâu”.
Phàm mọi việc cô gái đều có thể biết trước nên có việc gì nghi ngờ cứ bàn với nàng là quyết được ngay. Một hôm đang cùng ngồi chuyện trò, chợt nàng ngữa mặt lên trời cả kinh nói “Đại nạn sắp tới, làm sao bây giờ”. Lưu hoảng sợ hỏi người trong nhà lành dữ ra sao, nàng nói “Tất cả vô sự, chỉ có nhị công tử là đáng lo. Không bao lâu nơi đây sẽ thành chiến trường, chàng nên xin đi công cán nơi xa mới khỏi nạn”. Lưu theo lời, xin quan trên cho đi áp tải lương tiền tới Vân Nam Quý Châu. Đường sá xa xôi, ai nghe cũng thương xót cho Lưu, duy có cô gái lấy làm vui mừng. Không bao lâu Khương Khôi làm phản*, Phần Châu bị giặc chiếm làm sào huyệt, con trai thứ hai của Lưu từ Sơn Đông tới thì vừa gặp loạn, bị giết chết. Thành bị hãm, quan lại đều bị hại, chỉ có Lưu đi công cán nơi xa được thoát, đến khi yên giặc mới trở về.
*Khương Khôi làm phản: Khương Khôi là người cuối thời Minh, giữ chức Tổng binh Đại Đồng, khi Lý Tự Thành đánh tới thì Khôi đem thành đầu hàng, theo Tự Thành chống nhà Minh.
Sau Lưu dính líu vào vụ án lớn bị bãi chức, nghèo túng tới mức ngày không lo đủ hai bữa cơm, quan lại còn đòi hỏi hạch sách rất nhiều nên cùng quẫn lo lắng muốn chết. Nàng nói “Đừng lo, dưới gầm giường có chôn ba ngàn đồng vàng, cũng đủ chi tiêu”. Lưu mừng rỡ hỏi đánh cắp được ở đâu, nàng đáp “Của vô chủ trong thiên hạ muốn lấy bao nhiêu cũng có, cần gì phải trộm cắp?”. Lưu dùng số tiền ấy lo lót được thoát tội về quê, cô gái cũng đi theo. Vài năm sau chợt bỏ đi, để lại cái túi giấy chứa mấy vật lại cho Lưu, trong có lá phướn nhỏ treo nhà đám ma dài độ hai tấc, mọi người đều cho là điềm bất tường, kế Lưu chết.
106. Thần Sấm Sét
(Lôi Tào)
Nhạc Vân Hạc và Hạ Bình Tử lúc nhỏ ở cùng làng, lớn lên học cùng trường, chơi với nhau rất thân. Hạ thông minh từ nhỏ, mười tuổi đã nổi tiếng, Nhạc dốc lòng kính ái, Hạ cũng thường khuyên dạy cho không biết mỏi. Nhạc học hành ngày càng tấn tới nhờ vậy cũng nổi tiếng, nhưng khoa cử lận đận, cứ đi thi là rớt. Không bao lâu Hạ mắc bệnh dịch chết, nhà nghèo không chôn cất nổi, Nhạc khẳng khái đứng ra lo liệu, Hạ còn vợ góa con côi thì thường lui tới thăm hỏi, kiếm được chút ít gì cũng chia cho một nửa. Vợ con Hạ nhờ vậy mới sống được, các bậc sĩ đại phu vì thế càng khen Nhạc hiền. Nhà Nhạc không có của cải gì nhiều, lại còn chu cấp cho vợ con Hạ nên gia cảnh ngày càng sa sút, bèn than “Tài học như Bình Tử mà còn phải lận đận rồi chết, huống chi là ta? Sự giàu sang ở đời phải đúng lúc, nếu cứ lo lắng tròn năm thì e sẽ chết trước cả giống vật nơi ngòi rãnh, phí cả một đời, chẳng bằng lo liệu cho sớm”.
Từ đó Nhạc bỏ học đi buôn, làm ăn nửa năm thì cảnh nhà hơi khá lên. Một hôm đi buôn tới Kim Lăng (tỉnh thành Giang Tô), vào nghỉ trong quán trọ thấy một người cao lớn, bắp thịt cuồn cuộn cứ quanh quẩn cạnh chỗ mình ngồi, sắc mặt ảm đạm, có vẻ lo buồn. Nhạc hỏi “Muốn ăn cơm không?”, người ấy cũng im lặng. Nhạc đẩy mâm ra mời, y lấy tay bốc ăn, trong giây lát hết sạch. Nhạc lại gọi thêm một mâm mấy phần cơm, y lại ăn hết, Nhạc bèn bảo chủ quán cắt thịt heo, bóc bánh chưng đầy mâm, y lại ăn sạch mấy phần nữa mới no, cảm tạ nói “Ba năm nay chưa từng được bữa nào ăn no thế này”. Nhạc hỏi “Ông là bậc tráng sĩ sao lại lưu lạc khổ cực tới mức này?”, y đáp “Ta mắc tội với trời, không thể nói ra được”. Nhạc hỏi quê quán nhà cửa, y đáp “Trên bộ không có nhà cửa, dưới nước không có ghe thuyền, chỉ sáng vào trong làng tối ra ngoàí ruộng thôi”.
Nhạc sửa soạn hành lý ra đi, người ấy đi theo, bịn rịn không rời. Nhạc từ tạ, y nói “Ông sắp gặp nạn lớn, ta không nỡ quên cái ơn cho một bữa ăn”. Nhạc lấy làm lạ, bèn cho y đi cùng, trên đường kéo vào quán ăn cơm, y từ chối nói “Cả năm ta chỉ ăn vài bữa thôi”, Nhạc càng lấy làm lạ. Hôm sau qua sông, chợt sóng gió nổi lên, ghe thuyền chở thuê đều đắm cả, Nhạc và người ấy cũng chìm xuống sông. Lát sau gió lặng sóng yên, y cõng Nhạc đạp sóng ngoi lên, đưa Nhạc lên một chiếc thuyền khách rồi lại rẽ nước đi. Giây lát kéo về một chiếc thuyền, đỡ Nhạc qua dặn ngồi đó giữ rồi nhảy xuống nước, trồi lên thì hai tay xách hàng hóa bị chìm ném vào thuyền rồi lại lặn xuống, mấy lần lên xuống thì hàng hóa bị chìm được vớt lên đầy cả thuyền.
Nhạc cảm tạ nói “Ông cứu sống ta là quá đủ rồi, đâu dám mong lấy lại được hàng hóa” Kiểm lại của cải thấy không bị mất gì, càng mừng rỡ kính phục y là thần, định dong thuyền đi thì y từ biệt, Nhạc cố giữ cùng qua sông. Kế cười nói “Cái nạn thế này mà chỉ mất có một chiếc trâm vàng”, người ấy muốn lại xuống nước tìm, Nhạc đang ngăn lại bảo thôi thì y đã nhảy xuống nước mất hút. Nhạc kinh ngạc hồi lâu, chợt thấy y tươi cười trồi lên đưa cho chiếc trâm, nói “May là cũng tìm thấy”, người trên sông ai cũng kinh lạ. Nhạc đưa người ấy về nhà, ăn cùng mâm nằm cùng chiếu. Cứ mười mấy ngày y mới ăn một bữa, mà ăn thì ăn rất nhiều.
Một hôm từ giã đi, Nhạc cố giữ lại, vừa lúc trời tối tăm như muốn mưa, nghe có tiếng sấm. Nhạc nói “Không biết quang cảnh trong mây ra sao, sấm sét là vật gì, làm sao lên được trên trời mà xem một lần mới hết thắc mắc”. Người ấy cười nói “ông muốn lên mây chơi à?”. Giây lát chợt Nhạc thấy trong người mỏi mệt quá, lăn ra giường thiu thiu ngủ, khi tỉnh thấy người đong đưa không giống như đang nằm trên giường. Mở mắt nhìn thì thấy đang trong mây, chung quanh trắng toát như bông, hoảng sợ vùng dậy thấy váng vất như đang đi thuyền, dưới chân thì mềm mại không phải là đất, ngẩng đầu thì thấy tinh tú ngay trước mắt, nghĩ rằng mình đang nằm mơ. Nhìn kỹ thấy các ngôi sao khảm vào bầu trời như hạt sen trong gương sen, ngôi lớn bằng cái khạp, ngôi vừa bằng cái vò, ngôi nhỏ bằng cốc chén, lấy tay lắc thử thấy sao lớn bám chặt không nhúc nhích, sao nhỏ thì lung lay như có thể hái xuống. Liền hái lấy một ngôi cất vào tay áo rồi vén mây nhìn xuống thì bể bạc mênh mông, thấy thành quách nhỏ như hạt đậu, kinh ngạc tự nghĩ nếu lỡ hụt chân một cái thì còn gì là mạng.
Bỗng thấy hai con rồng uốn lượn kéo một chiếc xe căng màn chạy tới, đuôi ngoắt thành tiếng vun vút như roi trâu. Trong xe có cái bồn chu vi mấy trượng đựng đầy nước, có mấy mươi người cầm gáo múc nước tưới khắp trên mây. Họ thấy Nhạc đều lấy làm lạ, Nhạc nhìn kỹ thì thấy trong bọn có người tráng sĩ bạn mình. Y nói với mọi người “Đây là bạn ta”, rồi đưa Nhạc một cái gáo bảo múc nước mà tưới. Lúc đó trời đang đại hạn, Nhạc đón lấy cái gáo, vén mây nhìn về phía quê chăm chỉ múc tưới. Lát sau người bạn nói với Nhạc “Ta vốn là thần sấm sét, vì trước đây làm mưa sai hẹn nên bị phạt đày ba năm, nay đã mãn hạn, từ đây xin vĩnh biệt”. Rồi lấy sợi dây buộc xe dài cả vạn thước bảo Nhạc bám vào một đầu để thả xuống đất. Nhạc lo dây đứt, y cười nói không hề gì, Nhạc theo lời bám vào, thấy lơ lửng trong chớp mắt đã tới mặt đất, nhìn lại thì đang đứng ngoài làng, sợi dây thì thu dần vào trong mây không thấy đâu nữa.
Lúc ấy hạn hán đã lâu mới có trận mưa, nhưng ngoài mười dặm nước chỉ ngập ngón tay, chỉ có làng Nhạc thì hồ rạch tràn đầy. Về tới nhà Nhạc mò lại trong tay áo thì ngôi sao đã hái vẫn còn, đem đặt lên bàn thì đen như hòn đá, đến đêm thì long lanh sáng rực chiếu rọi khắp nhà. Nhạc càng quý báu gói lại cất kỹ, mỗi khi có khách quý thì mang ra thay đèn uống rượu ban đêm, nhìn thẳng vào thấy ánh sáng chói cả mắt. Một đêm, vợ Nhạc ngồi trước ngôi sao chải tóc chợt thấy ánh sáng thu nhỏ mờ dần chỉ còn như con đom đóm, lại động đậy bay lên, giật nảy mình định kêu lên thì ngôi sao đã chui tọt vào miệng, vừa khạc thì đã xuống tới cổ họng. Nàng sợ hãi chạy vào kể cho Nhạc, Nhạc cũng lấy làm lạ.
Kế nằm ngủ mơ thấy Hạ Bình Tử tới nói “Ta là sao Thiếu Vi những việc ông giúp cho ta vẫn nhớ không quên. Lại nhờ ông thương mến đem ta trên trời về, có thể nói là có duyên với nhau, nay xin làm người nối dõi cho ông để đền ơn lớn”. Lúc ấy Nhạc đã ba mươi tuổi vẫn chưa có con, mơ thấy thế mừng lắm. Từ đó vợ có mang, khi lâm bồn có ánh sáng chiếu khắp nhà như lúc đặt ngôi sao trên bàn, nhân đó đặt tên con là Tinh Nhi. Tinh Nhi khôn ngoan lạ thường, năm mười sáu tuổi thi đỗ Tiến sĩ.
Dị Sử thị nói: Ông Nhạc nổi tiếng văn chương một thời, chợt thấy việc theo đuổi công danh đến già không hợp với mình liền vứt ngọn bút như cởi chiếc dép, có khác gì Ban Siêu ném bút*! Đến như thần sấm sét cảm ơn cho ăn, sao Thiếu Vi đáp tình bạn cũ, há phải là thần nhân đền đáp ơn riêng đâu mà là tạo vật báo đáp cho bậc hiền hào đấy.
*Ban Siêu ném bút: nguyên văn là “Yến hạm đầu bút”. Hậu Hán thư, Ban Siêu truyện chép Ban Siêu thuở trẻ nhà nghèo phải làm việc chép thuê trong dinh quan để sống, gặp người thầy tướng nói “Ông hàm én đầu hổ (yến hạm hổ đầu), bay cao mà ăn thịt, đó là tướng được phong hầu ngoài vạn dặm”, Siêu ném bút than “Đại trượng phu phải lập công nơi đất lạ để được phong hầu, chứ sao có thể theo việc bút nghiên mãi được”. Sau đi sứ Tây Vực có công được phong tước Định Viễn hầu. Đây tác giả có ý nói ngược lại.