– 237 – 241 -: Hải Công Tử (Hải Công Tử)
Đảo cổ Đông Hải (thuộc tỉnh Sơn Đông) có cây hoa nại đông ngũ sắc, thường nở hoa cả bốn mùa, song trong đảo không có ai ở, ít người lui tới. Trương sinh người huyện Đăng Châu (tỉnh Sơn Đông) tính hiếu kỳ, thích du ngoạn, nghe nóí cảnh ở đó đẹp bèn mang rượu thịt, tự chèo thuyền ra đảo chơi. Tới nơi thì gặp lúc hoa đang nở rộ, mùi hương lan khắp mấy dặm, thấy cây nại đông to hơn chục người ôm, cứ qua lại ngắm nghía mãi, lấy làm thích thú. Rồi mở bầu rót rượn, tiếc là không có ai cùng đi chơi. Chợt trong đám hoa có một cô gái đẹp hiện ra, áo hồng mắt sáng, xinh đẹp không ai sánh được, nhìn Trương cười nói “Thiếp tự cho rằng hứng thú của mình không tầm thường, không ngờ đã có kẻ đồng điệu tới trước”. Trương ngạc nhiên hỏi là ai, nàng đáp “Thiếp là con hát ở huyện Giao (tỉnh Sơn Đông), vừa theo Hải Công tử tới đây. Ông ta thích cảnh đẹp đi khắp nơi, thiếp mỏi chân nên nghỉ lại ở đây”. Trương đang buồn về nỗi quạnh hiu, gặp được người đẹp rất vui, gọi tới cùng ngồi uống rượu.
Cô gái nói năng dịu dàng làm say lòng người, Trương rất yêu thích, nhưng sợ Hải Công tử tới nên không dám mặc tình vui vẻ. Chợt nghe gió thổi ào ào, cây cối gảy răng rắc. Cô gái vội xô sinh dậy nói “Hải Công tử tới rồi”. Trương thắt lại áo kinh ngạc quay nhìn thì cô gái đã biến mất. Kế thấy một con rắn lớn từ đám cây rậm bò ra, to như cái thùng. Trương sợ, núp vào sau cây nại đông, mong là nó không nhìn thấy. Con rắn bò sát tới quấn cả người Trương vào gốc cây, cuốn luôn mấy vòng, hai tay Trương bị đè dưới hông không cục cựa gì được. Rắn ngẩng đầu thè lưỡi chọc vào mũi Trương, máu mũi chảy ra đọng thành vũng dưới đất, nó cúi xuống uống. Trương tự nghĩ ắt là phải chết, chợt nhớ trong lưng có mang gói thuốc độc, bèn lấy hai ngón tay móc thủng cái gói, hứng thuốc vào lòng bàn tay, rồi vươn cổ ra đưa bàn tay hứng máu mũi, giây lát được một bụm. Con rắn quả nhiên quay đầu uống máu trong lòng bàn tay, uống chưa hết chợt duỗi ra, đập đuôi mạnh như sét trúng thân cây, nửa thân cây trên đổ xuống, rắn cũng duỗi ra như cái xà nhà chết lăn trên mặt đất. Trương cũng rủn chân hoa mắt không đứng dậy nổi, lát sau mới tỉnh. Bèn chở xác con rắn về nhà, bệnh nặng mấy tháng, ngờ cô gái cũng là tinh rắn.
238. Đinh Tiền Khê
(Đinh Tiền Khê)
Đinh Tiền Khê là người huyện Chư Thành (tỉnh Sơn Đông), gia tư giàu có, hào hiệp trọng nghĩa, hâm mộ những kẻ du hiệp thời cổ, bị quan tư nã bắt. Đinh bỏ trốn, tới đất An Khâu gặp mưa, vào trú ở một nhà nọ, nhưng mưa suốt cả ngày không ngớt. Có một thiếu niên bước ra mời ăn cơm, cơm nước rất tử tế. Kế trời tối, Đinh nghỉ đêm luôn lại đó, thiếu niên cũng đem rơm cỏ cho ngựa đầy đủ. Đinh hỏi tên họ, thiếu niên đáp “Chủ nhân họ Dương, ta là cháu trong nhà. Chủ nhân ưa giao du, có việc đi vắng rồi, trong nhà chỉ có nương tử, nhà nghèo không tiếp đãi được chu đáo, xin khách tha lỗi”. Hỏi tới nghề nghiệp chủ nhân, thì được biết chẳng buôn bán làm lụng gì, chỉ hàng ngày đánh bạc, kiếm ăn cò con.
Hôm sau lại mưa dầm dề. Đinh vẫn được lo cơm nước rất chu tất. Tối đến thiếu niên mang cỏ cho ngựa, bó cỏ ướt đẫm mà lại cọng dài cọng ngắn không đều, Đinh lấy làm lạ. Thiếu niên nói “Thưa thật với khách, nhà nghèo không có cỏ cho ngựa, đây là nương tử rút tranh lợp nhà xuống đấy thôi”. Đinh lại càng lạ lùng, cho là họ rất thành thật. Sáng ra đưa tiền, thiếu niên không nhận, Đinh ép thiếu niên cầm vào giây lát lại cầm ra trả, nói “Nương tử nói không phải làm nghề bán quán, chủ nhân ra ngoài thường vài ba ngày chẳng mang theo một đồng, nay khách tới nhà sao lại lấy tiền?”, Đinh ca ngợi từ biệt, dặn “Ta là Đinh Mỗ ở Chư Thành, khi nào chủ nhân về nhớ nói lại rằng lúc nào rảnh mời ghé chơi”.
Mấy năm sau chẳng hề qua lại gì, gặp năm đói kém, Dương càng khổ cực, không còn cách nào sinh sống, vợ rụt rè khuyên tìm tới Đinh, Dương nghe theo. Tới nơi, xưng họ tên với người gác cổng, Đinh quên không nhớ, sai hỏi lại mới nhớ ra, vội chạy chân đất ra mời vào. Thấy Dương áo rách giày nát, bèn đưa vào phòng ấm, bày tiệc khoản đãi, cung kính phi thường. Hôm sau may sắm quần áo cho, Dương được ăn no mặc ấm rất cảm kích, nhưng càng lo lắng cho gia đình, cũng mong được chút gì cầm về. Ở mấy ngày liền, chẳng nghe Đinh nói tặng tiền gì cả, Dương nóng ruột nói với Đinh rằng “Thật không dám giấu diếm, lúc ta lên đường tới đây thì trong nhà chỉ còn chưa đầy một thăng gạo, nay ta được quá thương lo cho ăn cho ở, dĩ nhiên vui sướng, nhưng vợ con thì làm sao!”. Đinh nói “Chuyện đó không lo, ta đã sắp xếp thay ông rồi, xin cứ thong thả ở chơi ít hôm, ta sẽ giúp tiền về”. Bèn sai người gọi đám con bạc tới, bảo Dương làm cái đánh trọn đêm thắng được trăm đồng vàng, bèn tiễn Dương về Dương về tới nhà thấy phòng ốc bày biện đầy đủ, vợ mặc quần áo mới, có tỳ nữ hầu hạ, ngạc nhiên hỏi. Vợ đáp “Chàng đi được vài hôm thì có người chở vải vóc lúa gạo tới vác vào chất đầy nhà, nói là của ông khách họ Đinh tặng. Lại có thêm mười người tỳ nữ cho thiếp sai bảo” Dương cảm kích vô cùng, từ đó được đủ ăn, không làm nghề cũ nữa.
Dị Sử thị nói: Nghèo mà hiếu khách là điều hay ở đám rượu chè cờ bạc, nhưng người vợ của họ Dương là lạ lùng nhất. Còn nhận ơn của người mà không báo sao đáng là người, nhưng Đinh mỗ quả là kẻ cái ơn một bữa cơm cũng không quên vậy.
239. Con Chuột Có Nghĩa
(Nghĩa Thử)
Dương Thiên Nhất kể có lần thấy hai con chuột ra kiếm ăn một con bị rắn nuốt mất. Con kia trợn mắt như hạt tiêu đứng nhìn, có vẻ rất căm giận. Rắn ăn no rồi, ngoằn ngoèo bò vào hang, vừa lọt vào hơn một nửa thì chuột lao tới cắn vào đuôi. Rắn tức giận lui ra, chuột lanh lẹn chạy trốn, rắn đuổi không kịp bèn quay lại, bò vào hang thì chuột lại tới cắn vào đuôi như trước. Rắn vào thì theo cắn, rắn ra thì bỏ chạy, cứ thế hồi lâu, rắn trở ra mửa con chuột chết ra trên mặt dất. Chuột tới ngửi ngửi, kêu chít chít như khóc thương rồi tha đi. Bạn ta là Trương Lịch Hữu có làm bài Nghĩa thử hành (Bài hành Con chuột có nghĩa) về chuyện này.
240. Quỷ Nhập Tràng
(Thi Biến)
Huyện Tín Dương (tỉnh Sơn Đông) có ông Mỗ ở thôn Thái Điếm. Thôn cách huyện thành năm sáu dặm, cha con ông ta dựng quán cạnh đường cho người buôn bán qua lại nghỉ trọ, có bốn người phu xe chở hàng vẫn vào trọ ở đó. Một hôm trời rất tối bốn người cùng về tới thì quán trọ đã đầy khách. Bốn người không biết làm sao, cứ nài nỉ xin cho trọ lại. ông Mỗ ngẫm nghĩ tìm được một chỗ, nhưng ngần ngại sợ không hợp với khách. Bốn người lại nói chỉ cần có chỗ ngả lưng là đủ chứ không dám chọn lựa khen chê gì cả. Lúc ấy con dâu của ông Mỗ vừa chết, xác còn đặt trong nhà bên kia đường, con trai đi mua quan tài chưa về, ông thấy trong nhà còn rộng bèn dắt khách qua đó nghỉ.
Khách vào tới thì thấy trên bàn có ngọn đèn leo lét, phòng trong buông rèm, cái xác được đắp chăn đậy mặt nằm đó, chỗ ngủ bên ngoài thì có bốn cái giường đặt liền nhau. Mọi người đều đã mệt mỏi, lập tức lên nằm ngủ khò, chỉ còn một người mơ mơ màng màng chưa ngủ hẳn. Chợt nghe trong phòng người chết có tiếng cót két, vội mở mắt ra nhìn, thì thấy rõ dưới ánh đèn cái xác người đàn bà đã giở chăn ngồi dậy. Kế đó cái xác bước xuống đất từ từ bước ra chỗ đám khách nằm ngủ, sắc mặt lợt lạt vàng khè, vén tấm vải che mặt lên trán, cúi xuống trước giường lần lượt thổi vào mặt ba người kia. Y hoảng hốt, sợ sẽ thổi tới mình, vội kéo chăn trùm kín đầu nhắm mắt nín thở nghe ngóng.
Không bao lâu người đàn bà cũng tới thổi vào y rồi đi trở vào. Y nghe tiếng rèm sột soạt, hé chăn ra nhìn trộm thấy cái xác đã nằm lại trên giường như cũ. Y sợ quá không dám lên tiếng, ngầm lấy chân đạp vào mấy người kia thì họ đều nằm yên không động đậy, nghĩ rằng không còn cách nào, chẳng bằng mặc áo trốn đi. Vừa trở dậy mặc áo thì tiếng cót két trong kia lại vang lên, y hoảng sợ vội nằm xuống kéo chăn che kín đầu, thấy người đàn bà lại tới thổi liên tiếp, hồi lâu mới trở về. Giây lát nghe giường trong có tiếng động, biết là cái xác đã nằm xuống, bèn rón rén mặc áo quần trong chăn, rồi nhảy xuống đất bỏ chạy. Cái xác vùng dậy định đuổi, vừa ra khỏi màn thì y đã tung cửa chạy rồi.
Cái xác đuổi theo, y vừa chạy vừa la, muốn đập cửa quán gọi ông Mỗ dậy nhưng sợ không kịp, bèn cứ theo đường về phía huyện thành ráng sức chạy. Tới cửa đông huyện thành, thấy có ngôi chùa, nghe thấy tiếng gõ mõ, vội vàng chạy tới đập của. Đạo nhân trong chùa thấy có chuyện lạ, lại không mở cửa ngay, y còn chờ thì cái xác đã đuổi tới còn cách có một thước, y càng hoảng hốt. Ngoài cổng chùa có cây bạch dương chu vi khoảng bốn năm thước, y bèn chạy tới đó ẩn núp, cứ cái xác vòng bên này thì y chạy qua bên kia, cái xác càng giận dữ song khách cũng dần dần thấm mệt. Cái xác dừng lại, y đổ mồ hôi thở hổn hển, nép vào gốc cây. Cái xác chợt lao qua, giơ hai tay từ ngoài nhảy xổ vào chụp, y kinh hãi ngã xuống đất, cái xác chụp hụt, ôm gốc cây đứng sững ra đó.
Đạo nhân trong chùa nghe ngóng hồi lâu thấy yên ắng, bèn từ từ mở cửa ra, nhìn thấy y nằm trên mặt đất, nghĩ rằng đã chết, nhưng thấy tim còn đập thoi thóp bèn cõng vào, đến sáng mới tỉnh. Đạo nhân lấy nước cho uống rồi hỏi han, y thuật lại mọi việc. Lúc ấy đã xong hồi chuông sớm, trời đã sáng mờ mờ, đạo nhân ra xem chỗ gốc cây, quả thấy cái thây người đàn bà đứng sững ở đó, cả sợ bèn báo quan. Quan đích thân tới tra hỏi khám nghiệm, sai gỡ tay cái xác ra khỏi gốc cây, mãi vẫn không được. Nhìn kỹ lại thì tám ngón tay đều cong lại như cái móc cắm lút vào thân cây, lại sai mấy người cùng hết sức giật mạnh mới gỡ ra được, nhìn lại thì chỗ ngón tay bấu vào trong gỗ sâu hoắm như lấy dùi đóng vào. Quan sai người tới nhà ông Mỗ dò xét, thì ở đó đang ồn ào rầm rĩ vì xác mất khách chết. Người sai dịch thuật lại chuyện, ông Mỗ bèn đi theo tới chùa, lãnh cái xác về. Người khách khóc nói với quan huyện rằng “Bốn người cùng ra đi với nhau, nay chỉ có một người trở về, kể lại chuyện này làm sao làng xóm tin được?”. Quan huyện bèn phát công văn sai người đưa y về quê.
241. Phun Nước
(Phún Thủy)
Tiên sinh Tống Thúc Ngọc người huyện Lai Dương (tỉnh Sơn Đông) làm quan ở kinh, phủ đệ ở một chỗ rất hoang vắng. Một đêm, hai người tỳ nữ cùng mẹ tiên sinh là Thái phu nhân ngủ ở trong phòng, chợt nghe sau viện có tiếng phùn phụt như thợ may phun nước lên vải để cắt áo vậy. Thái phu nhân bảo một người tỳ nữ dậy xem, người tỳ nữ núp sau cửa sổ nhìn ra thì thấy một bà già người thấp lưng gù, tóc bạc phất phơ, đội một cái mũ chụp cao chừng hai thước, đi vòng quanh nhà, co ro như con hạc, vừa đi vừa phun, mãi vẫn không hết nước trong mồm. Người tỳ nữ kinh ngạc trỡ vào bẩm, Thái phu nhân cũng ngạc nhiên dậy xem, hai người tỳ nữ đỡ ra cạnh cửa sổ cùng nhìn.
Bà già chợt tới sát cửa sổ, phun thẳng vào trong, giấy dán cửa sổ rách toạch, ba người sợ hãi ngả lăn ra đất, nhưng người trong nhà đều không biết. Mặt trời lên cao, người trong nhà đều tụ họp, gõ cửa phòng không thấy trả lời mới hoảng sợ, vội nhấc cánh cửa lên mà vào, thấy một chủ hai tớ đều nằm chết cứng. Sờ tới thấy một tỳ nữ dưới ngực còn ấm, vội đỡ lên cứu chữa, hồi lâu mới tỉnh, kể lại mọi việc. Tiên sinh tới, đau đớn phẫn hận muốn chết, bèn sai theo vết nước tìm tới một chỗ. Đào xuống hơn ba thước thì lộ ra mớ tóc trắng, lại đào nữa thì thấy có một cái xác, hình dung giống như người tỳ nữ đã trông thấy, sắc mặt vẫn tươi tắn như còn sống. Tiên sinh sai đánh, thì xương thịt đã nát hết, bên dưới lớp da chỉ toàn là nước trong mà thôi.