– 68 -: Họ Thân (Thân Thị)
Cạnh sông Kính Hà (ở tỉnh Thiểm Tây) có họ Thân là con sĩ nhân, nhà rất nghèo, có ngày không nổi lửa nấu cơm, vợ chồng nhìn nhau không biết làm sao. Vợ nói “Hết cách rồi, hay là chàng đi ăn trộm vậy?”, Thân đáp “Là con nhà sĩ nhân đã không làm rạng rỡ tổ tông mà còn làm mất danh tiếng, làm nhục ông cha, thì ăn trộm mà sống chẳng bằng trong sạch mà chết”. Vợ uất ức nói “Ngươi muốn sống mà ghét mang nhục à? Trên đời những kẻ không cày ruộng mà sống chỉ có hai cách, ngươi đã không thể làm ăn trộm thì ta cũng không sao làm đĩ”. Thân tức giận cãi vã với vợ, vợ uất ức bỏ đi ngủ.
Thân nghĩ mình là đàn ông mà không lo được ngày hai bữa cơm, để đến nỗi vợ muốn đi làm đĩ thì thà chết cho xong, bèn lặng lẽ dậy ra thắt thòng lọng trên cây ngoài sân treo cổ tự tử. Chợt thấy cha tới kinh ngạc nói “Thằng con ngu này sao lại đến nỗi như thế?”. Rồi cắt dây, dặn “Ăn trộm thì cũng được, nhưng phải rình ở chỗ đám lúa dày, chuyến này thì được chứ không được làm lần nữa đâu đấy”. Vợ nghe có tiếng rơi xuống đất giật mình tỉnh dậy gọi chồng không thấy lên tiếng, thắp đèn ra nhìn thì thấy trên cây có sợi dây đứt, Thân thì chết ngất ở dưới, hoảng sợ tới lay gọi, giây lát Thân tỉnh lại, vợ đỡ vào nằm trên giường, cũng bớt tức giận.
Trời sáng, vợ Thân nói thác là chồng bị bệnh qua xin cơm nhà láng giềng về cho Thân ăn. Thân ăn xong ra cửa đi, tới trưa vác một túi gạo về. Vợ hỏi gạo ở đâu, Thân đáp “Các bạn bè của cha ta đều là nhà thế gia, tới đó xin xỏ thì được nhưng không mặt mũi nào đi cầu xin. Người xưa nói “Kẻ không nổi tiếng thì làm gì cũng được, nay ta định đi ăn trộm đây, còn tiếc gì? Nấu cơm mau lên, ta định theo lời nàng đi trộm cướp đây”. Vợ nghĩ Thân giận lời nói của mình hôm qua nên mới nói thế, bèn vo gạo nấu cơm, Thân ăn no rồi vội tìm gỗ cứng lấy búa đẽo thành cái gậy cầm lấy ra đi. Vợ thấy đúng là đi trộm cướp vội kéo áo giữ lại, Thân nói “Cô bảo ta đi trộm cướp, nếu việc bại lộ liên lụy tới nhau thì đừng có hối hận”, rồi dứt áo đi thẳng.
Chập tối Thân tới thôn bên cạnh bèn vòng ra cách đó một dặm nằm rình. Chợt có cơn mưa rào đổ xuống, cả người ướt đầm, nhìn thấy phía xa có rặng cây bèn tìm tới tránh mưa. Chợt có tia chớp lóe sáng, thấy đã tới gần bức tường, xa xa lại như có người đi tới, sợ họ trông thấy, nhìn thấy dưới tường có đám lúa dày vội lủi mau vào đó ngồi thụp xuống. Không bao lâu có một người đàn ông tới, thân thể to lớn, cũng rẽ xuống đám lúa. Thân sợ không dám nhúc nhích, may mà người ấy đi xéo qua, nhìn theo thấy y nhảy vào trong tường. Thân nhớ lại phía trong tường là nhà phú ông họ Khang, ắt người này là kẻ trộm, cứ chờ y ăn trộm trở ra sẽ đòi chia. Lại nghĩ y to lớn khỏe mạnh, nếu không lấy trộm được nhiều sẽ không chịu chia, ắt phải dùng võ, nhưng tự lượng sức mình không đánh nổi y, chẳng bằng nhân lúc bất ngờ đánh ngã. Tính kế xong nằm xuống chờ hồi lâu, lúc gà gáy canh một y mới nhảy tường ra, chân chưa chạm đất, Thân đã vùng dậy đập một gậy vào lưng ngã xuống đánh huỵch, thì là một con rùa lớn, miệng to như cái chậu. Thân phát hoảng vác gậy đập túi bụi, con rùa chết luôn.
Trước là ông họ Khang có một con gái rất xinh đẹp, cha mẹ đều yêu thương. Một đêm có người đàn ông vào trong phòng nàng cưỡng ép đòi giao hoan, cô gái muốn la lên thì lưỡi đã cứng đơ rồi hôn mê không biết gì nữa, mặc cho y mượn làm gì thì làm. Khi y đi rồi nàng xấu hổ không dám nói, chỉ họp đám tỳ nữ lại ngủ cùng phòng, đóng cửa thật chặt mà thôi. Đêm sau không biết vì sao cửa phòng lại tự mở ra, vào xem thì mọi người đều mê man, đám tỳ nữ đều bị hành dâm, cùng hoảng sợ kể lại với nhau rồi báo cho ông Khang. Ông sai gia nhân cầm dao gậy rình sẵn, thắp đèn sáng ngồi trong phòng, khoảng gần nửa đêm thì người gác trong ngoài đều nhất loạt thiếp đi, chợt như tỉnh mộng thức dậy thì thấy cô gái đã trần truồng nằm trên giường ngất đi, hồi lâu mới tỉnh lại ông Khang hận lắm nhưng không biết làm sao, được vài tháng thì cô gái cứ héo hắt gầy mòn đi. Ông Khang nói với mọi người rằng ai có thể trừ tà cho thì sẽ thưởng ba trăm lượng vàng, ngày thường Thân cũng đã từng nghe. Đêm ấy đánh được con rùa, sực nghĩ ra đây là tà quỷ ám cô gái. Bèn gõ cửa xin thưởng, ông Khang mừng rỡ mở tiệc mời, sai treo con rùa ở sân phanh thịt ra, giữ Thân ở lại qua đêm, quả nhiên tà quỷ đều tuyệt tích, bèn đem đủ ba trăm lượng vàng thưởng cho Thân.
Thân mang vàng về, vợ thấy qua đêm không về đang lo lắng trông ngóng, thấy Thân vào vội hỏi han, Thân không đáp, bày vàng ra giường. Vợ nhìn thấy hoảng sợ nói “Thật là anh đi ăn cướp à?”, Thân đáp “Cô bắt ta làm như thế, sao lại còn hỏi?”. Vợ khóc nói “Hôm trước chỉ là nói đùa thôi, nay anh phạm tội chết chém, ta không thể chịu liên lụy với thằng giặc giết người, xin chết trước đây”. Rồi chạy ra ngoài, Thân đuổi theo cười kéo lại kể thật mọi chuyện, vợ mới mừng rỡ. Từ đó đem vàng buôn bán, cũng nổi tiếng giàu có.
Dị Sử thị nói: Người ta không lo nghèo, chỉ lo mất nết mà thôi. Tính nết đã ngay thẳng thì tuy đói cũng không chết, nếu không được người thương cũng có quỷ giúp. Những người nghèo khổ trên đời quên nghĩa để cầu lợi, quên nhục để kiếm cơm, không ai dám nhờ giữ giùm một đồng, thì làm sao còn được quỷ thần giúp cho?
69. Hằng Nương
(Hằng Nương)
Hồng Đại Nghiệp người kinh đô, vợ là Chu thị nhan sắc rất đẹp, hai bên đều yêu thương nhau. Sau Hồng cưới tỳ nữ là Bảo Đới làm thiếp, nhan sắc kém xa Chu nhưng Hồng lại yêu chiều. Chu bất bình, vì thế vợ chồng sinh ra bất hòa. Hồng tuy không dám công nhiên ở luôn lại phòng thiếp nhưng càng chiều chuộng Bảo Đới mà xa cách Chu.
Sau Hồng dời nhà, ở cạnh nhà một người buôn lụa họ Địch. Vợ Địch là Hằng Nương qua thăm Chu trước, thấy khoảng ba mươi tuổi, nhan sắc chỉ bình thường nhưng nói năng dịu dàng, Chu thích lắm. Hôm sau qua thăm đáp lễ thấy nhà nàng cũng có người thiếp khoảng hai mươi tuổi rất xinh đẹp. Ở cạnh nhau gần nửa năm, Chu không nghe thấy họ cãi cọ gì cả, mà Địch lại chỉ yêu quý có Hằng Nương, vợ thiếp chỉ là người để đó mà thôi. Một hôm Chu qua chơi nhà Hằng Nương, hỏi “Thiếp trước nay cho rằng chồng yêu vợ lẽ là vì vợ lẽ muốn thay bậc đổi ngôi, nay mới biết không phải. Phu nhân có thuật gì thế, nếu có thể dạy được thì thiếp xin làm học trò”. Hằng Nương đáp “Ồ! chị tự xa cách rồi lại trách chồng sao? Ngày đêm cứ nói sa sả là đuổi chim sẻ cho bụi rậm, càng xa cách nhau hơn. Về nhà cứ để mặc họ, dù chồng tự tới cũng đừng cho vào phòng. Sau một tháng thiếp sẽ tính tiếp cho chị”.
Chu theo lời, trang điểm thêm cho Bảo Đới, bảo cùng ngủ với chồng, Hồng ăn uống gì cũng bảo Bảo Đới ăn chung. Lúc nào Hồng quan tâm thì Chu ra sức từ chối, từ đó mọi người đều khen Chu thị hiền. Như thế hơn tháng, Chu qua thăm Hằng Nương, Hằng Nương vui vẻ nói “Được đấy!” Bây giờ chị về nhà bỏ hết nữ trang, đừng mặc quần áo đẹp, đừng đánh phấn tô son, để mặt bẩn đi giày rách làm lụng với người nhà, một tháng sau hãy qua đây”.
Chu theo lời, mặc áo vá đụp, làm ra vẻ bẩn thỉu chỉ lo dệt vải chứ không hỏi gì tới chuyện khác. Hồng thương xót bảo Bảo Đới cùng làm lụng nhưng Chu không cho, cứ quát đuổi lên nhà. Như thế hơn tháng, lại qua gặp Hằng Nương, Hằng Nương nói “Đứa nhỏ này dạy được đấy! Ngày tới là tiết Thượng ty*, muốn rủ chị đi chơi. Chị nên bỏ hết quần áo rách, giày dép áo quần thay mới một loạt rồi qua ta cho sớm”, Chu thị vâng dạ.
*Tiết thượng ty: một lễ hội ở Trung Quốc cổ, tiến hành vào ngày Tỵ đầu tiên trong thượng tuần tháng ba âm lịch.
Đến ngày, Chu thị soi gương trang điểm kỹ càng, hết thảy đều theo như lời Hằng Nương dặn. Trang điểm xong qua nhà Hằng Nương, Hằng Nương vui vẻ nói “Tốt lắm” rồi búi hộ mái tóc cánh phượng, mượt bóng như gương, tay áo không hợp thời trang thì tháo ra may lại, lại nói kiểu giày vụng, lấy vải vụn trong rương ra cùng khâu, xong rồi lập tức bảo Chu thay đổi. Lúc chia tay mời Chu uống rượu rồi dặn “Về gặp mặt chồng xong là đóng cửa đi ngủ ngay, y có tìm gõ cửa cũng đừng mở. Gọi ba lần mới mở cửa cho vào một lần, nhưng phải dè sẻn chuyện hôn hít vuốt ve. Nửa tháng sau hãy qua đây”.
Chu ăn mặc đẹp đẽ về nhà vào chào Hồng, Hồng chăm chú ngắm vợ từ trên xuống dưới, vui vẻ cười nói khác hẳn ngày thường. Chu thị kể qua buổi đi chơi rồi đỡ má ra vẻ mệt mỏi, trời chưa tối đã đứng dậy về phòng cài cửa đi nằm. Không bao lâu quả nhiên Hồng tới gõ cửa, Chu cứ nằm mãi không chịu dậy, Hồng mới bỏ đi, đêm sau cũng thế. Sáng ra Hồng trách móc, Chu nói “Ngủ một mình quen rồi, không chịu nổi sự quấy rầy”. Trời vừa xế Hồng đã vào phòng vợ ngồi giữ chỗ, kế tắt đèn lên giường như đêm tân hôn, thương yêu rất mực, lại hẹn đêm sau. Chu không chịu, hẹn trở đi cứ ba ngày một lần.
Khoảng nửa tháng qua gặp Hằng Nương, Hằng Nương đóng cửa lại chuyện trò rồi nói “Từ nay thì chị có thể chiếm luôn chồng rồi. Có điều chị tuy đẹp nhưng chưa có duyên. Nhan sắc như chị mà biết làm duyên thì tranh giành được cả lòng sủng ái với Tây Thi, huống hồ là kẻ xấu hơn”. Liền bảo Chu liếc thử, nói “Không phải thế! Cạnh ngoài khóe mắt chưa được”. Lại bảo cười thử, nói “Không phải thế! Má bên trái chưa được,” Rồi liếc mắt đưa tình, hé miệng cười duyên bảo Chu làm theo, mấy mươi lần mới hơi giống. Hằng Nương bảo “Chị về cứ soi gương mà tập, thuật chỉ có bấy nhiêu thôi. Còn như lúc trên giường thì tùy cơ mà khêu gợi, tùy sở thích mà chiều chuộng thì đó không phải là điều dùng lời mà dạy được!”.
Chu về làm đúng như lời Hằng Nương dạy, Hồng rất đẹp ý, bị cả nhan sắc lẫn phong thái của vợ làm cho si mê, chỉ sợ bị cự tuyệt. Trời vừa xế là vào ngồi nói chuyện vui cười với vợ không chịu rời phòng nửa bước, ngày nào cũng thế, không sao bảo ra được. Chu càng tử tế với Bảo Đới, mỗi khi ăn uống trong phòng đều gọi vào ngồi cùng, nhưng Hồng càng thấy Bảo Đới xấu xí, chưa xong bữa đã bảo nàng ta đi ra. Chu lại lừa chồng vào phòng Bảo Đới rồi cài cửa ở bên ngoài nhưng suốt đêm Hồng không động chạm gì tới, Bảo Đới vì thế giận Hồng, gặp ai cũng oán trách ra miệng.
Hồng càng chán ghét, dần dần tới chỗ đánh đập. Bảo Đới phẫn uất bỏ cả trang điểm, áo bẩn giày rách, đầu bù tóc rối nên càng không trách ai được. Một hôm Hằng Nương hỏi Chu “Thuật của ta thế nào?”. Chu đáp “Đạo thầy thật là tuyệt diệu, có điều đệ tử có thể làm được mà rốt lại vẫn chưa hiểu được. Để mặc là vì sao?”. Hằng Nương nói “Chị không biết sao? Người ta vốn chán cái cũ mà thích cái mới, trọng cái khó mà khinh cái dễ. Chồng yêu vợ lẽ không hẳn vì cô ta đẹp mà vì thấy cái ít được nếm là ngon, thấy việc khó được gặp là hay. Cứ để mặc cho ăn no thì sơn hào hải vị cũng ngán chứ nói gì tới canh rau muống”. Chu hỏi “Bỏ hết trang điểm rồi sau ăn mặc lộng lẫy là vì sao?”. Hằng Nương đáp “Bỏ không ngó ngàng gì tới thì như xa cách lâu ngày, bỗng thấy trang điểm đẹp đẽ thì như mới tới, khác nào người nghèo chợt được ăn thịt ngon, sẽ thấy gạo lứt là vô vị. Lại không dễ dàng cho nếm ngay thì kẻ kia là cũ mà mình là mới, kẻ kia thì dễ mà mình thì khó, đó chính là thuật biến vợ thành thiếp đấy”.
Chu cả mừng, bèn coi Hằng Nương là bạn thân chốn khuê phòng. Được vài mấy chợt Hằng Nương nói với Chu “Hai người chúng ta tình như ruột thịt, tự nghĩ không nên giấu diếm tung tích, trước đã định nói nhưng sợ chị nghi ngờ. Nay sắp từ biệt nên xin nói thật, thiếp chính là hồ. Thuở nhỏ thiếp gặp nạn, bị mẹ kế bán lên kinh đô, vì chồng thiếp đối xử tử tế nên không nỡ dứt tình ngay mới dùng dằng đến nay. Ngày mai cha thiếp trút xác lên tiên, thiếp phải về thăm không trở lại nữa”. Chu cầm tay Hằng Nương than thở, sáng ra qua xem thì cả nhà đang hoảng hốt kinh sợ vì Hằng Nương đã biến đâu mất.
Dị Sử thị nói: Người mua ngọc không quý ngọc mà lại quý cái hộp đựng ngọc*. Tình người đối với mới, cũ, khó, dễ vẫn là điều ngàn xưa đến nay không sao hiểu được, nhưng cái thuật đổi ghét thành yêu đã được dùng trong chỗ đó rồi. Kẻ nịnh thần ngày xưa thờ vua thì ngăn vua gặp người, cản vua đọc sách, đủ biết việc giữ cho mình được sủng ái lâu dài cũng là điều tâm truyền đấy.
*Người mua ngọc… cái hộp đựng ngọc: Hàn Phi tử chép có người nước Sở bán viên ngọc cho người nước Trịnh, lấy gỗ mộc lan làm cái hộp đựng, sơn phết chạm trổ đẹp đẽ, người nước Trịnh bèn mua cái hộp mà trả lại viên ngọc.