Bắt Ma – Tác Giả Nhật Hoàng
5. Chìa khóa
Sư Thiện Pháp vừa ngồi uống nước chè, vừa ngẫm lại mọi sự đang diễn ra ở trong làng. Bây giờ tối đến chẳng ai dám ra đường, con nít bị bắt ở yên trong nhà, khúc sông làng Bích giờ như vô chủ, hoang tàn , lạnh lẽo. Có vẻ chỉ còn cửa chùa là nơi khiến người ta cảm thấy an tâm nhất.
Chú tiều lẽo đẽo chạy vào rót thêm nước sôi vào ấm, cắt ngang dòng suy nghĩ của sư.
– Con cứ để đó cho thầy.
– Bẩm thầy, nãy giờ có cụ Bảy ngồi chờ xin gặp thầy trước cửa chùa, con tính báo nhưng thấy thầy đang ngồi ngẫm nên…. .
– Sao không nói sớm, con ra mời cụ vào ngay cho thầy – sư Thiện Pháp vội vã.
Cụ Bảy ôm cây đàn chậm rãi tiến vào góc sân vườn chùa. Rót chén nước chè mời cụ Bảy, sư vẫn không giấu nổi vẻ hoài nghi. Cụ Bảy không nói gì uống cạn chén nước, sư Thiện Pháp lại rót đầy cho cụ, cụ lại bưng lên uống khảng khái. Đặt chén nước chè còn đọng ấm hơi xuống, cụ Bảy ôn tồn:
– Chắc sư thầy có nghe chuyện ma quỷ của làng ta.
– Bẩm cụ, tôi có. Thú thật, tôi cũng đang phiền vì chuyện ấy đây, cụ biết cửa chùa thanh tịnh một lòng mở của từ bi xóa bỏ lỗi lầm. Phàm có chuyện gì cũng đều bác ái bỏ qua, oan hồn thực chất mà nói cũng chỉ là do oán khí tích tụ mà nên. Tôi thiết nghĩ vong linh này chắc chắn có chuyện oan trái, ngặt một nỗi nhà chùa chưa thể hóa duyên giải ngộ cho nó được.
– Sư thầy cũng tin có ma quỷ? – cụ Bảy hỏi giọng chắc nịch.
– Có chứ, hề là người đều có phần hồn phần xác, khi chết đi chỉ còn phần hồn. Thường thì hồn sẽ sang đầu thai làm kiếp khác, nếu không thì có chuyện gì khúc mắc phần hồn mới luẩn quẩn như vậy.
Nén tiếng thở dài, cụ Bảy vừa nhìn xa vừa nói:
– Chuyện cũng là do tôi. Cách đây bốn tháng, vào chiều mùng một Tết khi đó tôi đang câu cá ở mé sông thì thấy đằng xa có một cô gái đi thẳng đến chỗ tôi, nhờ tôi chở sang sông. Lúc đó đã chiều, trời đã gần tối, lại thấy sắc mặt cô gái có vẻ không tốt nên tôi sinh nghi, chưa ra đò vội. Gặng hỏi mãi thì cô ấy mới khóc, một hồi vừa khóc vừa kể cho tôi biết cô lỡ yêu một thằng họ Sở. Tên này sau khi khoắng sạch số tiền cô tích cóp được thì trốn biệt, còn để lại một đứa bé trong bụng cô. Nhục nhã, ê chề, cô đi lang thang đến làng ta thì gặp tôi, nhờ tôi đưa sang sông. Lúc ấy, tôi tôi cũng chủ quan, nghĩ cô chưa ăn gì nên an ủi vội mấy câu rồi bảo cô ngồi chờ, tôi lên quán bà Bổi xem còn thứ gì ăn được thì mang xuống cho cô ấy. Ngờ đâu lúc trỏ xuống đã thấy chiếc đò của tôi ở giữa sông, biết có sự chẳng lành tôi mượn tạm chiếc ghe lão Trì chèo ra đến nơi thì không thấy cô ấy đâu, trên đò chỉ còn mẩu giấy kể tội kẻ bạc tình kia và nhờ tôi giữ hộ một vật. Sư thầy không biết chứ tôi đã lặn mò suốt cả đêm ấy mới thấy được xác cô ấy. Ngày đầu năm, không muốn dân làng xôn xao, tôi đem cô ấy chôn tạm vào gốc mít rồi nhang khói cho cô ở Miếu dốc đôi, ngờ đâu bây giờ cô ấy quấy quá.
Sư Thiện Pháp trầm ngâm, giờ thì sư đã rõ mọi chuyện. Sư không ngờ ở cái làng nhỏ bé này lại tồn tại một câu chuyện mang kết cục bi thương như vậy. Như chợt nhớ ra điều gì, sư Thiện Pháp sốt sắng hỏi cụ Bảy:
– Cụ còn giữ vật đó không?
Cụ Bảy lần mấy lớp áo đưa ra một vật, Sư Thiện Pháp trông thấy phút chốc kinh hãi. Sư hỏi dồn dập:
– Có phải cô gái đó mặc áo bà ba màu hồng, cắt tóc ngắn, khoảng 25 tuổi phải không cụ?
Đến lượt cụ Bảy ngớ người:-sư thầy cũng biết cô gái đó?
Làm sao sư Thiện Pháp quên được nụ cười buồn, cái ánh nhìn chất chứa cả đau thương và đầy thù hận của cô gái đó chứ. Nhìn xuống chiếc dây chuyền bạc lấp lánh, sư thở dài, vật còn đây mà người đã ra thiên cổ.
– Tối nay cụ đi với tôi ra đó – sư nói chắc nịch, vẻ mặt không chút e dè.
Dốc Miếu đôi mới hơn tám giờ đã heo hút, vắng lạnh rợn người. Mấy nhà xung quanh cũng tránh đi đâu mất, phải khó khăn lắm sư Thiện Pháp và cụ Bảy mới chong đèn đến được đây, giữa cái nơi mà màu đen của màn đêm và tiếng ếch nhái đang làm chủ nơi này.
Cắm bó nhang đỏ rực xuống gốc mít, sư Thiện Pháp rì rầm đọc mấy bài Kinh Địa Tạng, Cầu Siêu, sắc mặt nghiêm trang. Cụ Bảy đứng bên, tay vân vê điếu thuốc lào đỏ rực, nhẩn nha nghe mấy lời kinh kệ.
Hồi lâu, sư dừng lại, khấn rõ to cốt để cho cả cụ Bảy chứng kiến:
– Nữ thí chủ, ta và thí chủ có duyên gặp nhau nhưng không có duyên giác ngộ, đó cũng là lỗi lớn do ta mà ra. Phàm là tăng ni thì phải mở cửa từ bi, lắng nghe mọi điều chúng sanh giãi bày. Ấy vậy mà ta sơ suất, không biết được nữ thí chủ có một nỗi tâm sự lớn như vậy. Nay việc đã rồi, hà cớ thí chủ còn chưa siêu thoát. Gieo nhân nào gặt quả ấy, kẻ bạc tình kia rồi cũng sẽ bị báo ứng. Thí chủ đừng canh cánh mối hận thù mà làm chết bao người vô tội, sinh linh trong bụng thí chủ cũng cần cơ hội đầu thai làm người. Nay bần tăng mạn phép cùng cụ Bảy đây đem tro cốt của thí chủ an táng trong chùa, mong thí chủ sớm siêu thoát, hà tất phải ở chốn đây làm ma hại người. Nếu thí chủ đồng ý, thì xin làm bó nhang cháy sáng lên ba lần cho chúng tôi được rõ.
Lặng đi hồi lâu không thấy có động tĩnh, cụ Bảy tính lên tiếng thì sư Thiện Pháp ngăn lại:
– Nữ thí chủ, lời của bần tăng thí chủ nghĩ chưa thông sao.
Một sự im ắng đến lạ thường, cụ Bảy nghe dòng máu trong cơ thể mình như đang chảy mạnh hơn, cả cụ và sư Thiện Pháp đều nín thở.
Bất chợt có tiếng hét nghe đến xé lòng từ trên cây mít vọng xuống, liền tức khắc bó nhang cháy rực lên ba lần rồi tắt ngấm. Sư Thiện Pháp nhắm mắt đọc kinh, nói vọng qua cụ Bảy:
– Cụ thực hiện được rồi.
Nhờ có lời giải thích của sư Thiện Pháp và lời kể của cụ Bảy, dân làng mới rõ và tiếc thương cho cô gái áo hồng kia. Khúc sông bắt đầu có người qua lại, đã lâu cũng không còn thấy ai nộp mạng trên đoạn sông này. Người lớn, trẻ con hớn hở ra mặt, chỉ có bà Bổi là buồn đôi chút vì lượng khách đến hóng chuyện sụt giảm. Tuy vậy, ấn tượng về câu chuyện và hai vong hồn cũng khiến cho dốc miếu Đôi vắng vẻ và hoang tàn đi nhiều, sự lạnh lẽo vẫn còn bao trùm nơi đây.