Đại Nam Di Truyện – Tác Giả Phan Cuồng
Hồi thứ hai ĐÓI NẠN ĐÊM RẰM THÁNG BẢY
Năm Cảnh Hưng thứ ba mươi chín[1]. Hạn hán tháng 4 kèm với nạn hoằng trùng[2]. Ban đầu, nồi cơm không còn trắng như thường nữa, điểm vào đó là những dong, những khoai, những chuối. Dần dà, cũng chẳng còn những thứ đó nữa. Hai bữa cơm một ngày dần thay bằng một bữa, rồi thì hai ngày một bữa. Trâu được cầm cố cho nhà giàu, gà, vịt thưa dần vì được bán đi hoặc thịt ăn dần. Người ta đổ ra sông đánh cá, đánh tôm, bắt tép, cũng lay lắt khi được khi không. Rồi đến mèo, chó, người ta cũng không thể để lại như trước nữa, cũng phải thịt ăn, mà ăn dè ăn sẻn, nấu nồi nhựa mận để khó bị thiu ăn suốt nửa tháng(???).Cũng rất nhanh, chỉ vài tháng sau, không còn lấy một con chó con mèo nào trong làng, vì nhà nào thương lắm, tiếc lắm, thân thiết lắm thì cũng phải thịt ăn, nếu không thì cũng bị trộm bắt mất. Ruột sắt lại. Người ta hè nhau ra đồng bắt chuột. Rồi chuột cũng cạn dần. Thường thì chẳng ai dám động đến cá trê gần mả vì ghê cá trê ăn thịt người chết, nhưng đói mạnh hơn sợ, cá trê mả cũng ăn. Cuộc sống của người dân lúc này chỉ xoay quanh từ ăn và ăn. Sáng dậy hỏi hôm nay ăn gì, tối đi ngủ nghĩ mai có chết đói không… Trịnh chúa cứu đói bằng cách bắt ép nhà giàu phải nộp thóc gạo để phát chẩn. Nhưng nhờ đó mà quan được mùa to. Gạo phát chẩn trộn lẫn mùn cưa phát cho dân chúng. Mà cũng phải ăn, những nồi cháo dần ít hồ mà chỉ còn mùn với mùn. Nhà giàu thì tha hồ thu về trâu, bò. Ngẫm lại, nếu từ trước đến nay, “nước chảy chỗ trũng thì đói chỉ làm tăng thêm độ dốc để trũng sâu thêm.
Những ngày đó, mỗi ngày trong trấn có rất nhiều người chết, một phần là người của trấn, phần khác là những người hành khất xin ăn từ các vùng nông thôn hẻo lánh hơn. Thực ra họ chỉ đi qua đấy, vì mục đích của họ là Kinh thành. Kinh thành không dễ sống hơn, nhưng có lương thực, có lúa gạo, khoai sắn… Giống như nước chảy từ các khe nhỏ về khe lớn, từ khe lớn về suối, từ suối đổ về song, từ song đổ ra biển. Kinh thành chính là biển lớn mà họ trông chờ, Tam Dương cũng là một khe suối nhỏ trong dòng chảy ấy. Càng ngày, họ tràn về càng nhiều, sau một hành trình dài tìm hy vọng, họ chết tại nơi xa lạ này. Quan trong huyện ngay từ tháng năm đã cho đào một cái hố vuông mỗi cạnh ba trượng, sâu một trượng ngay cạnh làng Quyết, lệnh cho tất cả mọi người đều phải tránh xa trong vòng một dặm. Dân làng vốn đã trải qua nhiều trận đói đều truyền tai nhau rằng cái hố đó dành để chôn người chết, quan cấm đến gần thứ nhất là để tránh dịch, thứ hai là để tránh lòng dân hoang mang. Huyện Tam Dương nổi tiếng vì mỗi khi xuất hiện người chết đói đều có những chuẩn bị chu đáo khiến không bao giờ thấy người chết trên đường. Cũng vì chuyện này mà quan huyện được triều đình khen ngợi và ban thưởng. Cái hố đó, cách nhà Quyết không đến hai dặm.
Khi đó, Quyết được 13 tuổi, với thời thế như vậy, hắn không tránh khỏi chết đói, đó là điều hiển như như việc gã là một kẻ ăn mày. Từ hơn một tháng nay, chẳng có ai cho Quyết một hào cắc hay chút gì ăn được cả. Gã buộc phải ăn đủ thứ. Ban đầu hắn ăn chuối, thêm chút rau tập tàng, vơ được đâu đó ven đường. Rồi thì cỏ, rễ cây, hoa, côn trùng, đôi khi cả giun đất, hắn còn rình ngựa quan với nhà giàu để chờ khi ngựa đại tiện liền bới tìm những hạt ngô chưa tiêu hóa được mà ăn. Có hôm có quan lý trưởng đi uống rượu về, say quá, đứng ven đường vạch quần, đái một bãi, rồi thì hắn nôn thốc nôn tháo. Quyết thấy được, mừng rỡ, chẳng kịp chờ tên quan kia đi mà cứ thế lao vào bốc lấy bãi nôn mà ăn, đại khái thì cảnh tưởng là một người cứ nôn, còn một người cứ ăn. Hôm đó, hắn được một bữa no, nhưng chua loét! Suốt cả ngày hắn đào, hắn bới, hắn ngó nghiêng. Bây giờ hắn không còn đi thẳng được nữa, thường phải bò. Xương sườn bắt đầu nhô cao. Các khớp xương như bắt đầu lồi ra, như sưng lên. Chắc chắn hắn sẽ chết. Hắn biết thế.
Chết đói vốn là thứ đáng sợ nhất so với chết đuối hay chết khát, bởi nó diễn ra trong thời gian dài. Nếu chết đuối trong vài phút thì chết khát trong vài ngày. Nhưng chết đói thì nhiều tuần, có khi đến cả tháng trời. Thêm vào đó, ma mạnh là ma chết trẻ hoặc oan ức. Những linh hồn chết đói là một trong những kiểu linh hồn chết oan khuất và tức tưởi vì còn nhiều dằn vặt khổ sở và oán hận trong lòng nên khi chết đi không được siêu thoát dễ dàng, trở thành những vong sống vất vưởng trong thế gian. Vì thế, sự đau khổ của chết đói dày vò con người hơn.
Phàm là con vật cũng có bản năng sinh tồn vô cùng mạnh mẽ. Con người, dù gì cũng có phần con trong mình, khi bình thường bị ràng buộc bởi lễ giáo, gia phong, luân thường đạo lý. Ngay cả phường ác tặc giết người không ghê tay cũng không thoát khỏi những quy tắc này, cái gì anh hùng nghĩa khí, cái gì là cướp cũng giữ chữ tín. Tất cả phần người chỉ có thể có khi người ta không bị đói. Càng đói, phần con càng mạnh mẽ hơn. Đói ít thì người ta gắt gỏng, khó tính. Đói nhiều, người ta phá bỏ thói quen tìm đủ thứ để thỏa mãn dạ dày. Đói quá, người ta thành con thú điên cuồng đòi tìm thỏa mãn.
– Phải ăn thịt người chết! Hắn nghĩ đến cái hố chôn xác cuối làng.
– Phải, trong vòng vài chục dặm quanh đây chắc có lẽ chỉ còn cái hố đó còn thức ăn.
Thực ra đó cũng chẳng phải là do hắn nghĩ, đó là mệnh lệnh của cơ thể đưa ra để bảo vệ mạng sống, kể cả khi đó là điều man rợ. Nhưng sống là điều quan trọng, ăn vài ba cái xác đã chết để chịu cái dày vò của luân thường đạo lý đối với người quân tử có lẽ chẳng bằng chết đi. Nhưng Quyết là một gã ăn xin. Một gã ăn xin thì cần gì luân thường đạo lý. Chỉ cần đạo lý của trời cho sinh vật: Được sống. Thứ hai nữa, Quyết sinh ra trong nhà làm nghề khâm liệm, việc tiếp xúc với xác chết đối với hắn chẳng có gì là đáng sợ. Vì trước khi sa sút, theo lệ nhà Quyết, bố mỗi khi đi liệm ai thường dẫn theo con trai để học nghề từ khi còn rất bé. Thực ra, việc ăn thịt người không phải là không có tiền lệ. Nhiều nhà phải đổi con cho nhau để ăn. Để ngẫm lại rằng việc Quyết định làm cũng chỉ đáng ghê tởm chứ chưa phải là ghê tởm nhất.
Đêm đó là ngày rằm tháng bảy. Quyết lết từng bước từng bước đến bãi chôn người. Gã biết nhưng tên lính hầu thường quấy quả cho xong chuyện nên cái bãi chôn người này không mấy khi được lấp cho kín, mùi bốc lên cách xa cả dặm, xú khí xung thiên. Gã sẽ tìm một cái xác nào mới để duy trì cuộc sống. Bùi nhùi lửa đã mang, lửa sẽ xua đi mùi xú uế và hắn sẽ nướng qua thứ thức ăn đó-hắn cố không nghĩ đến từ xác chết- có thể được ăn và cuối cùng, hắn sẽ sống!
Đó là một cái hố rộng đến ba trượng, sâu đến một trượng, quả như hắn đoán, những tên quan binh không hề lấp đất. Vì thế, ngay khi thò đầu vào hố, hắn sực hít phải mùi tử thi bốc lên cuồn cuộn. Hắn lập tức nôn thốc nôn tháo một thứ nước vàng vọt, chua loét. Hắn cố trấn tĩnh lại:” Nếu không ăn thì chết”. Hắn thử một lần nữa nhưng còn đủ tỉnh táo để không lặp lại sai lầm khi nãy, hắn nghiêng người, kê đầu bên hố, hắn thò tay với xuống hố, hắn mò mẫm. Không khó khăn gì để tìm được những thi thể kia, vì chúng lấp gần đầy hố. Hắn quơ được một bàn tay. Hắn bặm môi kéo mạnh. Nào ngờ bàn tay không hề khó kéo như hắn nghĩ mà vụt thuận theo ý hắn. Quyết hét lên một tiếng, hết hồn vì nghĩ người đó còn sống. Hắn ngã ngửa ra sau, lăn một vòng. Cú ngã làm hắn đau ê ẩm và sợ. Hắn định thần lại và nhìn kỹ thì thấy tay hắn chỉ cầm một bàn tay. Một bàn tay mục rũa và tím tái. Không thể ăn thứ đó. Hắn lại gượng quay người lại một lần nữa. Đột nhiên hắn thấy nhiều tiếng động sột soạt xung quanh hắn. Hắn nhìn quanh và thực sự kinh hãi, trong bóng đêm, xung quanh hố này có rất nhiều bóng đen. Những bóng đen này, hoặc là bò lết như hắn, một số khác mặc dù đứng mà lết được trên hai chân nhưng dáng điệu gầy gò, còm cõi, từng bước đi cực kỳ khó nhọc. Những bóng đen này, lẩn khuất trong bóng tối, nhưng nhìn kỹ ra thì nhiều vô kể, chúng đều hướng tới cái hố này. Hắn hoảng hồn, không hiểu đây có phải là những hồn ma hay chăng?
Một vài bóng đen lúc này đến được miệng hố, bất chấp hôi thối mà lao hẳn xuống hố. Quyết kinh ngạc không hiểu sao lại có chuyện kỳ dị như thế.
Trước mắt hắn, những bóng đen động đậy dưới hố lần lượt tìm kiếm gì đó. Đến khi tìm được, chúng đều cúi đầu dí sát đầu vào vật đó. Chúng đang ăn!
Quyết bây giờ mới vỡ lẽ ra, những bóng đen này đang ăn những cái xác. Bọn chúng đều lao xuống hố rồi tìm kiếm những cái xác mới chết mà ăn. Thì ra, không phải chỉ có một mình Quyết nghĩ đến chuyện ăn người chết.
Trong hố có một tiếng hét lên làm tất cả các bóng đen và cả Quyết giật mình. Thì ra có một bóng đen khi ngã xuống thì bất tỉnh, một bóng đen khác thấy cơ thể người này chưa bị phân hủy, bèn để sống mà cắn một miếng nơi bắp tay. Nào ngờ người này tỉnh dậy, hét lên được một tiếng rồi đạp người kia ra. Cuối cùng cả hai đều ngất đi. Rất nhanh, hai cái bóng đen ngã ra lại bị những bóng đen khác xâu xé lấy.
Bây giờ không còn là người ăn xác chết nữa. Mà là người ăn thịt người, còn sống. Là vì họ nhận ra cái hố này chôn toàn những người chết ít thì một hai ngày, nhiều thì cả tháng nên không tài nào nuốt nổi. Đành phải quay ra cắn cả người mới ngất đi. Rồi hoặc là người ngất đi tỉnh dậy, hoặc là tranh dành lẫn nhau, những bóng đen hỗ chiến với nhau bằng chút sức tàn nhưng cực kỳ khốc liệt và man rợ, dần dần thì thành một hỗn chiến dưới hố mà người tham gia vào ngày càng đông, kể ra phải đến ba bốn chục, tranh giành, cắn xé lẫn nhau.
Quyết kinh hãi quá, mà muốn chạy cũng không còn sức nữa nên đành trân trân ngó vào hố mà không thể làm gì.
Đó quả là địa ngục trần gian.
Đột nhiên Quyết nhận ra sau lưng mình có một vật đè lên. Một người sắp chết đói khác đang đè lên hắn, cắn một miếng vào bắp chân. Quyết hét lên một tiếng, nhưng dường như kiệt lực, hắn ngất đi.
Mưa! Mưa làm hắn tỉnh chết. Chẳng biết đã qua bao nhiêu lâu. Lúc này trời tối mịt mùng, dù đêm nay là rằm nhưng mưa to quá nên hắn không nhìn thấy gì. Xung quanh mềm mại và ướt át. Cảnh hỗn loạn lúc trước không còn nữa, nhưng hôi thối kinh khủng. Mùi hôi thối mà khi nãy đã làm hắn nôn ọe. Hắn kinh hãi nhận ra: Mình đang nằm dưới hố!
Đang lúc kinh hãi thì thấy có tiếng hú dài. Mùi hương ở đâu làm hắn càng hoảng hốt hơn:”lẽ nào mình đã chết?”. Chết đói! Ai cũng biet những người chết không ai thân thích, không nhà không của, không mồ mả sẽ thành cô hồn, tất cả những linh hồn của người chết oan uổn, chết đuối, chết vì dã thú, những người chết trận, chết đói… đều trở thành cô hồn. Cô hồn chính là những linh hồn vất vưởng trên trong nhân gian, không được siêu thoát, đây là tình trạng con người lo sợ nhất sau khi chết, không những không được ai nhang khói thắp hương, không mồ mả để nương hồn, mà một số còn bị quỷ địa ngục bắt về, tra tấn vì những tội lỗi đã làm trong quá khứ, rồi nếu được đầu thai thì cũng thành kiếp chó lợn súc vật mặc người ta muốn chém muốn giết tùy ý. Lại có những cô hồn nay đây mai đó không bị bắt cũng không được đầu thai. Chết làm con ma đói, không biết rồi sẽ ra sao. Trong lúc Quyết chưa thể quen ngay với cái ý nghĩ mình đã thành một cô hồn thì bỗng có một tiếng thầm thì, cái giọng này làm người ta rợn người, vì mới nghe thì ấm áp nhưng dần dần thấy ma quái, trong sự dịu dàng có sự mạnh mẽ, có khi khẩn khoản van xin, có khi nài nỉ ý ôi, có lúc mê hoặc lòng người, nhưng cũng có khi mạnh mẽ như ra lệnh, bạo mạnh như quát nạt, mà tựa như thể nhẹ nhàng là hình còn mạnh mẽ là thế, trong bọc có kim. Nghe tiếng gọi này người ta vừa muốn nghe theo, người ta vừa sợ hãi mà phải nghe. Qua một hồi lâu Quyết mới đủ bình tĩnh để nghe từng câu từng chữ. Đó giống như một bài ca. Nhưng nghe kỹ thì thực ra giọng đọc ca nhiều bài và mỗi bài một vẻ, liên tiếp nhau không ngừng nghỉ, hết bài này đến bài khác, có bài dài lê thê, có bài ngắn gọn. Sau mỗi bài, lại có một tiếng hú dài. Quyết nghe có một bài ca rằng:
Hồn hỡi hồn
Cô đơn cõi chết
Không người thân thích
Không có cơm ăn
Đêm tối lang thang
Bụng thèm miệng khát
Áo cơ quần rách
Vất vưởng về đâu?
Hồn hãy mau mau
Theo thầy chịu lệnh
Không còn nhang lạnh
Thầy cúng áo quần
thầy cúng cơm canh
thầy cho vàng bạc….
Hồn hỡi hồn!
Về nơi thầy không còn vất vưởng
Về với thầy có bạn âm binh!
Hắn từ nhỏ đã theo cha ông làm nghề khâm liệm, tiếp xúc với ác chết nên những chuyện về ma quỷ hắn cũng có đôi chút kiến thức.
-“Đây chẳng phải văn khấn âm binh sao? Hôm nay lại là rằm tháng bảy!” – Hắn kinh hãi nghĩ thầm.
Ngày xá tội vong nhân, chính là ngày âm phủ mở cửa để các vong hồn được tự do đi lại trên dương thế, một số ít trong số đó được siêu thoát, đầu thai, một số khác thì chỉ được tự do vào ngày duy nhất đó trong năm. Đêm rằm tháng bảy, là đêm mà dương thế nhiều vong hồn vất vưởng nhất. Các nhà đều thắp hương khấn cúng để phát thực. Lệ tục phát thực đó một phần vì lòng nhân đạo, cảm thương cho những kiếp lầm than chưa trot, nhưng phần khác chính là lo sợ sinh ra cúng bái. Đêm rằm tháng bảy, chính là cơ hội mỗi năm có một lần, là đêm mà các thầy phù thủy lập “thu binh trận”. Binh ở đây chính là âm binh. Để thực hiện trận, thầy phủ thủy trước hết phải yểm thân, nghĩa là tự mình phải không để cho ma quỷ xâm phạm, muốn như thế có nhiều cách tùy theo từng chi phái khác nhau. Có người tự vẽ bùa yểm quỷ lên thân. Có người luyện bùa làm từ thai nhi ruột thịt của hắn, có người phải dùng kiếm ấn của một vị tướng quân nào đó nhuốm máu đủ chín mươi chín người, có người dùng xác trinh nữ… Các loại bùa khác nhau đều có chung công dụng là giữ cho phù thủy – vị tướng âm binh không bị chính âm binh của mình hại. Tùy theo công lực và mức độ công phu của từng loại bùa mà mang lại hiệu quả mạnh yếu khác nhau. Ví dụ như vẽ bùa yểm quỷ thì người vẽ rất quan trọng. Nếu người vẽ đã hành nghề lâu năm, số lượng âm binh lớn thì bùa đó đủ sức trấn yểm đa số các loại linh hồn hay ma quỷ, nhưng chẳng may gặp nhưng vong hồn của tướng lĩnh thất trận, oai dạnh lẫm liệt, chỉ hiềm hồn không về được huyệt mộ thì sẽ tang mạng mà bị chính vong hồn tướng quân đó sử dụng, trở thành con rối trong tay vong hồn đó. Vong hồn đó tuy không phải là được đầu thai nhưng cũng coi như được sống một lần nữa, lẽ dĩ nhiên chỉ được sống trong bóng đêm suốt đời không được tiếp xúc với vật cực dương của thế gian là mặt trời. Về thuật tự yểm thân, thực cao thâm khó lường hết.
Tiếp đó, các thầy phù thủy lập “thu binh trận”. Trận pháp này cũng đa dạng khó lường. Về cơ bản có hai cách “chế” và “dụ”. Chế là áp chế bằng cách cưỡng bức linh hồn vào trận, “dụ’ là phủ dụ vong hồn vào trận. Trận “chế” bao giờ cũng khó lập hơn nhưng thu được binh mạnh hơn vì nên nhớ rằng linh hồn càng oan khuất, oán thán thì càng có sức âm. Những binh thu được từ trận “chế” một khi phản chủ thì tay phù thủy sẽ thê thảm vô cùng, không những bản thân mà con cháu đều bị liên lụy. Trận “dụ” dễ lập hơn, ít nguy hại hơn nhưng thường không thu được binh mạnh. Có thầy lập trận “chế” theo bát quái ngũ hành để ma quỷ đi vào đó thì lạc không thể thoát ra, các thầy có thời gian áp chế. Có thầy dùng trận “dụ”, chỉ cần đặt linh vật như chín mươi chín đồng xu được ngậm trong miệng chín mươi chín người chết (dĩ nhiên những đồng xu này được đào trộm mộ mà có) để thu hồn vong nhân rồi dùng lời lẽ mê hoặc để phỉnh dụ. Loại trận pháp này giống như một loại giao dịch của thương nhân, không ràng buộc mạnh mẽ, chặt chẽ. Những âm binh cũng không đủ sức làm cac việc như chữa bệnh hoặc giết người hoặc bảo vệ thầy phù thủy mà thường chỉ có thể làm những việc như tát nước hoặc thám thính hoặc sai âm binh đi ném đá, gạch vào nhà người khác, nói tóm lại là những việc lặt vặt. Trận thu binh của thầy phù thủy thông thường sẽ có lễ vật trọng
Hắn cảm thấy kinh hãi,vì hắn biết, đối với chuyện mình đang ở đây lúc này, việc đã chết hay đang sống đều chang co gi tốt dep cả. Hắn hiểu rằng mình đang nằm ngay giữa trận đồ thu binh của một thầy phù thủy nào đó. Trận thu bình này lập đúng ngày xá tội vong nhân và ngay tại nơi nhiều người chết đói thế này, thì số lượng âm binh theo thầy sẽ nhiều không kể xiết. Chỉ có thầy phù thủy cao tay ấn mới có thể lập được trận lớn thế này.
Quyết thầm nghĩ, nếu hắn đã chết thì nghe lời khấn này nếu quy theo gã phù thủy kia thì khác nào bị giam cầm mãi mãi, vất vưởng không được thành người. Nếu không nghe theo thì có thể bị đội âm binh sẵn có của gã phủ thủy kia ám toán (???). Nếu giả hắn chưa chết thì phàm là người nào không có căn mà nhìn thấy âm binh thì không sớm cũng muộn sẽ bị âm binh “giết người diệt khẩu”. Mà nghe nói, chưa chắc đã được chết tử tế, thường thì là những tai nạn thảm khốc không nhận ra hình hài, hoặc nếu không thì cũng sẽ bị ngớ ngẩn điên rồ, sống cũng không bằng chết.
Vậy mà hắn đang ở đây, ngay giữa “thu binh trận”!
Khi đó mưa đã dứt, gió thổi nhẹ. Hắn dần tỉnh táo hơn, nhưng lạnh. Hắn biết mình chưa chết vì mặc dù khó khăn nhưng hắn thở, rõ ràng là hắn thở như bất kỳ sinh vật sống bình thường nào khác. Nhưng hắn sực tỉnh vì mùi thức ăn, mùi thịt gà, mùi rượu, mùi hương hòa lẫn với nhau. Nguyên là người đói rất nhạy với mùi thức ăn, dù cho mùi thức ăn quyện với mùi xác chết đi nữa. Khi trước hắn mới ngất đi tỉnh dậy, chưa quen với mùi hôi thối bốc lên, trời lại mưa và tinh thần khiếp sợ khiến hắn không cảm nhận được mùi hương này. Rõ là mùi thịt gà, mặc dù mấy năm nay không được ăn thịt gà nhưng hắn vẫn không thể quên được mùi hương này.
Chợt có tiếng chuông, leng keng.
Gió thổi.
Hắn ướt và lạnh, gió càng thổi hắn càng lạnh. Hắn biết, hoặc bò được lên miệng hố hoặc chết ở đây. Mặc kệ tà ma hay thần quỷ, hắn cũng phải rời khỏi chỗ này. Mà, chắc gì đã có ma. Có lẽ, chờ thầy phù thủy làm phép xong hắn có thể xin được thọ lộc chăng. Vì hắn biết, là thầy phủ thủy có nuôi âm binh, người thầy tự coi mình là tường, không bao giờ thụ lộc của âm binh, là người dưới của mình. Khi đó thì con gà kia, và chút rượu nữa. Hắn cố lật người lại. Dù đã quen hơn với cái mùi mục rữa của cơ thể người, nhưng khi lật người lại mùi xú uế xộc thẳng vào mũi khiến hắn không tài nào thở được, từ bụng hắn nổi lên một cơn sóng, hắn nôn thêm một lúc nữa. Hắn chỉ chực nằm ngửa ra để khỏi phải chịu đựng cái mùi kinh khiếp này. Nhưng hắn biết, chỉ cần cứ ở đây, hắn sẽ chết, sớm hoặc muộn.
Lại có tiếng chuông, leng keng, leng keng.
Gió thổi mạnh hơn.
Hắn đã bắt đầu bò được một bước. Thực ra nói là bò cho sang miệng chứ thực ra là hắn trườn và lấy tay đẩy thêm đôi chút. Lúc này đôi chân hắn tê cóng không thể nhúc nhích được làm hắn di chuyển càng khó khăn. “Phải sống” hắn lẩm nhẩm vì không muốn mình ngất đi lần nữa. Tỉnh táo hơn, hắn hiểu rằng nhờ có cơn mưa ban nãy, cơn mưa đêm rằm tháng bảy mà hắn có thể tỉnh lại, nếu chậm hơn chút nữa, có lẽ hắn không thể sống.
Lại có tiếng chuông, leng keng, leng keng, leng keng.
Gió mạnh.
Sau một hồi cố sức. Hắn chỉ cách miệng hố chừng nửa cánh tay. Vì hố đầy ngập xác nên hắn có thể bò lên được miệng.
Lại có tiếng chuông, leng keng, leng keng, leng keng.
Gió mạnh dữ dội, cây cối xào xạc.
Những tán cây đen đúa hiện lên trên nền trời tối thẫm. Hắn thấy gì đó không ổn. Có cái gì đó ngày càng gấp gáp.
Bây giờ thì tiếng chuông liên tục kêu, không thể đếm được từng tiếng. Tiếng nọ lẫn vào tiếng kia, tiếng kia nuốt mất tiếng nọ. Gió đang tự dưng ngừng bặt. Nhưng có một điều khó hiểu. Đó là vẫn nghe thấy tiếng cây cối ngả nghiêng. Rồi như có tiếng hát từ xa. Cũng không phải tiếng hát. Giống như tiếng nói chuyện mà cũng không hẳn là tiếng nói chuyện. Tiếng động này, từ xa tiến lại gần.
Bỗng cái giọng ma quái sau một hồi im ắng kia quát lên một tiếng:
– Tới!
Tiếng quát làm tóc gã dựng đứng lên. Tiếng động từ xa kia như cảm ứng với tiếng quát, dường như tiến nhanh hơn. Hắn kinh hoàng nhận ra bằng cảm giác: Âm binh đang đến. Đây rõ ràng là trận “chế” của một tay phù thủy lão luyện.
Lúc này Quyết nằm sấp ngay sát miệng hố, ngẩng đầu lên có thể thấy cảnh tượng xung quanh. Hắn hiểu ra chắc chắn tên phù thủy này đã giết hết các bóng đen khi nãy. bấy giờ hắn nhất thời cũng không biết nên làm thế nào nên vì bò tiếp ra khỏi hố cũng không được nên chẳng còn cách nào khác định nằm im chờ đợi. Nhưng thâm tâm cũng tò mò nên kê tay lên cằm, ghé mắt ngó.
Lúc này đã tạnh mưa, trăng rằm soi rõ mọi vật như ban ngày. Gã thấy ngay trên một bãi đất trống cạnh hố, bày biện một bàn lớn. Trên bàn có một lư hương bằng đồng nhỏ, một bát hương, khói hương từ bát và khói trầm từ lư bằng đồng bốc ra nghi ngút. Vốn có hiểu biết trong nghề hương khói, Quyết biết ngay đây là tuyệt phẩm “tử khí trầm” quý hiếm loại thượng hạng từ vùng… Chữ “tử” ở đây không có nghĩa là chết mà là đỏ tía vì loại trầm hương này khi đốt khói có màu đặc trưng màu đỏ tía và hương thơm cực kỳ đậm đà, trong vòng mấy chục trượng đều ngửi thấy mùi. Dân gian truyền rằng, trầm hương hình thành từ cây dó bầu, hương trời bay theo gió đáp vào chỗ bị thương trên thân cây, lâu ngày, cây thấm hương trời biến thành trầm hương. Những cây dó có trầm thường bị xơ xác và thân có u, bướu, bị sâu đục, gò mối đóng, cây bị giông gió làm gãy cành hay bị sét đánh.Loại “tử khí trầm” này, phải hội đủ hai yếu tố, một là bị huyết trùng đục, hai là bị sét đánh. Thứ tự đục trước đánh sau không được thay đổi. “tử khí trầm” một khi đã xuất hiện thì các mùi khác không tài nào có thể nhận biết được. Vậy tại sao vẫn có mùi hôi thối nồng nặc? Chuyện này có hai nguyên nhân. Thứ nhất là, hương trong bát hương dù là loại hương “mỹ thành” cũng là loại tuyệt phẩm trong các loại hương. Nhưng xét về bản chất, trầm bao giờ cũng hơn hương một bậc nên không có nhiều công dụng. Nhưng “tử khí trầm” gặp “mỹ thành hương” thì công dụng cũng giảm đi một phần. Thứ hai là mùi xú khí của tử thi cũng là thứ mùi vị cực phẩm thối trong thiên hạ, hắn lại nằm ngay giữa trung tâm của một cái huyệt với hàng trăm xác chết nên “tử khí trầm” không phát huy được hết tác dụng cũng là vì vậy. Tính ra thì, vừa có một cuộc long tranh hổ đấu của hai loại mùi hương mà cuối cùng vẫn chưa phân thắng bại. Vừa rồi có lẽ trầm hương được đốt thêm nên tạm thời xú khí hắn ngửi thấy mười phần đã giảm được bảy. Nên nhớ, đối với thầy phù thủy dùng “chế” trận, mùi hương cực kỳ quan trọng. Hồn theo hương mà tới, vì vậy mà mỗi khi khấn cúng người ta thường thắp hương, một phần coi đó như một lễ vật để cung tiến, một phần cũng là để hồn người gọi dễ về. Trầm hương thầy cúng sử dụng càng quý thì càng dẫn dụ được nhiều vong. Nhưng thầy cũng phải cân nhắc năng lực của mình, trầm quý dẫn vong quý, vong quý trị được thì đại quý, không trị được thì họa, đại họa.
Lúc này Quyết mới nhìn rõ, trên bàn bày biện đủ cả hương, hoa, đăng, trà, quả, thực gọi là lục phẩm tiến cống. Giữa bàn bày nguyên một con lợn quay lớn, còn có đến năm con gà xếp xung quanh, rồi xôi, hoa quả, toàn thứ đồ thượng hạng, đấy là thực. Có điều, với tình thế này, Quyết tuy đói nhưng có gan bằng trời cũng không dám lao đến tranh ăn.
Cạnh bàn một người đàn ông cao mà gầy đang đứng bên bàn đưa tay lên mặt bàn, tay đặt vào trong một cái bát lớn. Bên cạnh có một cái bát khác, nhất thời Quyết chưa thể nhận ra trong đó có gì. Dị nhân này đầu tóc dài xõa phủ gần như kín mặt, đôi mắt lấp ló trong mái tóc đó. Nhưng đó là đôi mắt sắc như dao và sáng như điện, tựa hồ trong đêm tối đôi mắt đó phát sáng được. Quyết lúc này cách bàn tế có một trượng và gần như thấy rõ người đàn ông này. Miệng tay phù thủy liên tục lầm bầm điều gì đó. Nguyên là lúc này, sau khi gọi hồn về quanh “thu binh trận”, hồn thường không vào trận ngay, thời khắc này là rất quan trọng cho việc thành bại của lễ tối nay. Nếu không dùng uy lực áp chế được vong vào trận thì thầy phù thủy có cao tay đến mấy cũng không thể sai khiến vong được. Ở đây thầy dùng trận “chế” nên càng nguy hiểm hơn. Vong bị thầy dùng uy lực thúc đẩy vào trận, có thể ví như người ta thúc ép một con vật vào lồng, nếu không cẩn thận sẽ bị con vật đó quay ra cắn lại. Oai lực chính là cái thần thái tự có trong mỗi con người. Có người mà khi người ta mới gặp lần đầu đã cảm thấy quý mến, gần gũi, có người người khác gặp lại thấy sợ hãi, ví như có sát khí của loài rắn, loài vật dù bé như nhưng mỗi lần gặp đều khiến người ta có cảm giác kinh dị. Oai lực này giống như năng khiếu của mỗi thầy phù thủy, là cái trời cho, không bao giờ học được. Ví như thường thì con người không thể nhúc nhích tai mình, nhưng có người lại có biệt tài đó. Những chuyện như thế này, con nhà danh gia khâm liệm như Phạm Đình Quyết vẫn thường được nghe ông, cha và nhiều người trong đám ma nhắc đến nên rất có hiểu biết. Người trước mặt Quyết lúc này, thần tướng lộ rõ ràng trên mắt, ánh mắt như chưa dao, chưa ra lệnh mà người khác đã phải thuần phục, chưa lên tiếng người khác đã phải tuân theo, con người có dữ tướng như thế này, thì không những dụ ma, mà thôi miên người sống cũng dễ như trở bàn tay, tính ra cũng là cao thủ trong giới huyền thuật (???).
Lại nói tình trạng hiện giờ đang là lúc quyết định, nếu không dụ được ma thì thầy phù thủy có hai vật hộ thân. Thứ nhất là oai khí của bản thân, cái này gọi là tố chất tự có, thứ hai là bùa trấn yểm đã chuẩn bị khi trước, cái này có thể học được, nhưng công phu rèn luyện cực kỳ gian khổ. Tuyệt thủ phù thủy có thể không cần yểm thân mà chỉ cần oai lực bản thân, loại này có thể được coi như vua trong âm giới, cực kỳ hiếm gặp. Thầy phù thủy cao gầy trước mặt Quyết đây không có được tố chất đó, oai lực tuy vào dạng khó tìm nhưng chưa phải là tuyệt thế. Thế nhưng như thế cũng là cẩn thận vì với thần thái lộ diện thế này thì thu những binh thường như vong lưu lạc cũng là chuyện dễ như trở bàn tay. Nhưng nghề nào có quy tắc nghề đó, nghề phù thủy tiếp xúc với âm giới, cũng như nghề khâm liệm, phải lấy thận trọng làm đầu, vì nếu chẳng may mà bị ma áp vong thì hậu quả khó lường, lúc đó chết được đã là điều may mắn. Có thầy phù thủy non tay bắt vong mạnh, bị vong nhập vào, đêm về lẻn vào phòng con gái ruột, làm chuyện đồi bại, không những thế, khi xong việc tự nhiên quát tháo om sòm, làm cho cả làng chạy sang xem, đều biết chuyện. Lúc đó, thật là sống dở chết dở, bị cả làng dè bỉu khinh miệt, không bỏ làng đi không được, đó là nỗi oan cực kỳ khó giải vì nghề phù thủy thường phải giấu kín, hoặc ít người biết đến, thành ra không ai tin là mình bị ma nhập mà chỉ coi mình như loại cầm thú, tự hãm hiếp con đẻ. Ngoài chuyện đó ra một khi vong đã áp được vào thầy thì những chuyện trả thù thật là vô cùng đa dạng, cướp của giết người hay thậm chí để thầy tự tay giết cả nhà thầy đều là những chuyện dễ như trở bàn tay. Vậy nên nghề phù thủy phải thận trọng hơn nghề khâm liệm một bậc âu cũng là dễ hiểu, một bên là khiển ma, một bên là hầu ma, tự nhiên thứ tự phân rõ cao thấp.
Lúc bấy giờ, trăng đã lên cao, trời quang mây tạnh. Trăng rằm làm mọi vật sáng như ban ngày. Quyết giật mình kinh hãi vì nãy giờ chú ý vào bàn lễ, khi quay sang nhìn xung quanh thì thấy những bóng trằng lờ nhờ nửa đen nửa trắng xếp thành một vòng dày đặc, những bóng này chính là vong hiện. Quyết thấy những tiếng kêu rất man rợ phát ra từ khắp nơi. Tựa hồ như đó là tiếng khóc nức nở của người mẹ mất con trộn lẫn với tiếng la thét của những người bị xử lăng trì, đâu đó còn thấy tiếng thì thầm như của một đám đông. Gió rít liên tục, cây cối liên tục chao đảo theo chiều gió. Âm thanh này, cảnh tượng cảnh tượng này làm người ta thật kinh hãi.
Gã cao gầy đứng trước bàn lễ không hổ danh là một thầy cao tay ấn, trước cảnh tượng đông đúc này mà không hề nao núng, miệng vẫn khấn đều đặn, không hề tỏ ra biến sắc, như thể đây là chuyện diễn ra hàng ngày vậy. Đột nhiên, gã thét một tiếng:
Vào!!!
Tiếng quát này to mà đanh thép, tựa hồ như tiếng tướng quân ra lệnh. Tiếng thét vừa dứt, tất cả các âm thanh đều im bặt, cả gió cũng không còn. Qua một hồi, Quyết thấy các bóng lần lượt đi qua một hướng, giống như sắp hàng đi qua trước bàn lễ vậy. Hàng bóng trắng này đi qua trước mặt Quyết. Đương nhiên là khiến quyết kinh hãi vô cùng, nhưng tò mò còn thắng cả kinh hãi, cũng cố giỏng tai, ghé mắt xem cho tường tận.
Mỗi bóng cách nhau chừng nửa trượng, mỗi khi qua trước mặt thầy, lại dừng lại, tựa như để thầy nhìn cho kỹ. Thầy nhìn từng bóng một rất kỹ càng, rồi lại quát một tiếng:
– Qua!
Lập tức bóng trắng này rời khỏi bàn và rời đi rất mau chóng và lặng lẽ. Nhưng cũng có lúc thầy hô:
– Nhận!
Lập tức bóng trắng đứng ra một bên, tụ lại một góc mé tả thầy. Qua một hồi rất lâu, mới có ba cái bóng tụ lại gần thầy. Lúc này thầy mới lấy một cái gì đó trong cái bát lúc nãy thầy đặt tay vào và bỏ sang cái bát bên cạnh. Nguyên đây là một thầy phù thủy cực kỳ cao tay, không phải loại vong tầm thường nào cũng nhận, mà phải có chọn lọc, nuôi những ma mạnh có thể làm được nhiều việc hơn, hữu dụng hơn, nuôi những vong yếu nhiều khi vô dụng, vì ngoàii việc nghe ngóng, làm do thám hay true ghẹo đàn bà, trẻ con thì thường không làm được việc khác. Những vong tụ lại bên cạnh thầy chính là những ma được thầy thu nhận. Còn vật trong bát là những hạt đậu đen, thầy yểm phép để vong có thể ẩn vào hạt đậu khi cần có thể gọi ra, lúc không cần có thể thu lại trong hạt đậu đó, đi đến đâu có thể đem ra sử dụng đến đó, rất là thuận tiện. Lại nói thêm rằng, có thầy cúng thường chỉ thờ âm binh trong các bàn thờ gần nhà, loại thầy phù thủy có thể thu được hồn vào hạt đậu cũng là hạng hiếm gặp.
Những chuyện này, Quyết cũng hiểu được sáu bảy phần, là do được nghe nói nhiều nhưng chưa bao giờ thấy tận mắt, hôm nay, nếu không tính đến nguy hiểm đang rình rập thì kể ra cũng được một lần mãn nhãn. Lúc này, hiếu kỳ thắng kinh hãi, Quyết quên cả mình sắp chết đói, quan sát rất cặn kẽ, suy đoán từng việc, từng việc một.
Bây giờ, trước mặt thầy phù thủy là một dị vong. Gọi là dị vong vì bóng của hồn này không nhờ nhờ như các bóng khác mà sáng khác thường. Ánh sáng của vong này lộ sắc tía hồng, sáng hơn và lớn hơn các vong khác. Thầy phù thủy nhìn vong đến một khắc (???). Mặt không biến sắc, nhưng từ miệng thầy, tiếng niệm to hơn. Cái bóng tía lắc lư. Thầy cũng đọc gấp theo nhịp lắc lư đó. Trán thầy toát mồ hôi nhưng giọng niệm vẫn ổn định, không lộ vẻ gì khác thường trong tiếng niệm, trừ việc tiếng niệm to hơn. Nhưng dường như tiếng niệm này không khắc chế được tía vong. Vong này liên tục lắc lư thách thức. Đột nhiên, thầy phù thủy ngừng niệm. Hai mắt mở to nhìn chòng chọc vào vong.
Đột nhiên có tiếng cười ha hả vang dội.
Thầy phù thủy giật mình, lùi lại một bước, miệng lẩm bẩm:
– Soái vong!
[1] Tức năm 1778
[2] Tức bệnh rầy ở lúa