Home Truyện Ma Hay Đại Nam Di Truyện – Tác Giả Phan Cuồng

Đại Nam Di Truyện – Tác Giả Phan Cuồng

Hồi thứ ba SOÁI VONG TRONG HÀNH KHẤT
Hồi thứ ba
SOÁI VONG TRONG HÀNH KHẤT
Lại nói chuyện thầy phù thủy đang thu binh thì gặp phải “soái vong”. Nguyên là, trong cõi âm, các vong hồn cũng phân trên dưới như trần gian, yếu tố thứ bậc là yếu tố thứ hai trong việc quyết định vong mạnh, yếu. Yếu tố quan trọng bậc nhất là dương khí còn nhiều hay ít….
Trong các loại vong, “đế vong” là cực mạnh, có thể làm chuyện lấp bể rời non, đây là các hồn của các vua chúa chết đi. Loại này cực hiếm gặp, vì các vua chúa được chôn cất trong các lăng mộ cực kỳ kiên cố, không bao giờ phải lang thang không nhà không của. Thứ hai nữa, các hồn ma của vua chúa đều có được đám ma cực kỳ trọng thể, đại lễ cầu siêu cực kỳ long trọng, lễ vật tuyệt phẩm thiên hạ, nên siêu thoát nhanh chóng, còn đâu trên thế gian mà lưu lạc? “Đế vong” thường chỉ xuất hiện khi vua chúa bị lật đổ, lăng mộ bị tàn phá, thi thể bị trấn yểm thành ra vua hóa dân, lang thang. Nhưng lại phải nói, thế gian có thiên giới, địa giới và trần giới, Vua địa giới tuy thấp hơn diêm vương – vua địa giới- một bậc, thấp hơn ngọc hoàng -vua thiên giới- hai bậc, nhưng xét trong các vong hồn thì đây là loại vong hồn mạnh nhất, hiếm gặp nhất. Việc áp được “đế vong” là chưa từng thấy.
Loại thứ hai, chính là “soái vong”. “Soái vong” là những vong hồn của các tướng cầm quân ra trận, thua chết trên sa trường. Không phải tướng nào cũng có thể thành “soái vong”. Vị tướng phải đủ oai dũng. Có những người vì gia thế mà được phong tướng, có những người vì nịnh nọt mà mua được danh, nhưng tài lược, dũng khí không có, cũng không thể thành soái vong. Vị oai tướng chết đi, linh khí vẫn còn, lại bị chết tức tưởi nên hồn không siêu thoát được. Đây chính là loại vong mà phù thủy cao gầy đang gặp.
Có một loại vong khác cũng ngang hàng về sức mạnh với “soái vong” là “quan vong”, tương tự như “soái vong”, nhưng là những vị quan văn chết oan uổng, bị tru di cửu tộc, oan khuất tày trời, thành ra cũng không siêu thoát được.
Vì “đế vong” cực hiếm nên ít khi được đề cập, thứ hai nữa là bậc vua chúa, khi nào chịu theo hầu, làm tướng cho người ta? Thê nên người ta chỉ coi “soái vong” và “quan vong” là đỉnh cao của âm binh. Có được một vong như thế, hơn ngàn vạn âm binh theo hầu. Có điều, để phục được một vong như vậy, phù thủy phải đem tính mạng ra đánh cuộc.
Gã phù thủy cao gầy đang trong tình trạng như vậy. Để thắng “soái vong” có hai cách, một là dùng chính âm binh mình có, hai là phải có bảo bối thâu ma. Nếu dùng chính âm binh của mình thì cũng có hai cách, hoặc là số lượng phải đông đảo, áp bức “soái vong” vào thế “hổ dữ thua bầy chó”, hai là phải có một “soái vong” hoặc “quan vong” mạnh hơn “soái vong” đang muốn thu. Thầy phù thủy cao gầy trông thấy ánh sáng tía phát ra từ vong trước mặt thì biết là “soái vong” mình đang gặp mạnh mẽ vô cùng, pháp thuật cao thâm khó lường, nếu không thu được thì bùa yểm thân không thể hộ vệ nổi. Thành ra, trong lúc này, thầy đã chuẩn bị một trận tử chiến. Thầy thét:
– Tan!
Lập tức, các bóng sáng mờ nhạt xung quanh dần tản ra hết, chỉ sau độ nửa tuần hương, bên cạnh hố chôn xác, chỉ còn lại thầy và “soái vong” kia. “Soái vong” vẫn lắc lư thách thức, giống như chờ đợi thầy phù thủy dọn sạch sẽ sân bãi để chiến đấu một trận cho thoải mái vậy. Nguyên là thầy phù thủy lo rằng khi quanh mình quá nhiều vong thì lúc giao đấu dễ bị vong áp, thành ra mới phải giải tán đám vong kia. “soái vong” làm gì không biết chuyện đó, có điều, bản tính soái vong cũng thực oanh liệt, tuyệt đối không them chiếm tiện nghi. Âu cũng là chỉ có thể giết được tấm thân của người có dũng, chứ nào có thể diệt được oai của anh hùng là như thế.
Thầy phù thủy thấy thế cũng sinh lòng cảm phục. Bèn lớn tiếng hỏi:
– Tại hạ là Cao Tiến, người đất Kinh Bắc, hành nghề được hai mươi ba năm, binh tướng không nhiều, chỉ có năm trăm tinh binh. Xin Tướng quân cho biết tên. Nếu tướng quân đồng ý, hãy cùng tại hạ làm việc lớn, không dám phân cao thấp, không kể đến cách biệt âm dương, coi như bằng hữu. Từ rày về sau, có phúc cùng hưởng, có họa cùng chịu. Khi thành việc lớn, sẽ lập miếu, xây đền, không dám nuốt lời.
Giọng nói của Cao Tiến câu đầu cực kỳ đanh thép, sau lại cực kỳ mềm mại, có lúc hơi uốn éo như đàn bà, đây chính là thuật mê vong của phù thủy Cao Tiến. Nguyên là trong câu nói này vừa có ý trọng vừa có ý kiêu. Đối với hạng vô danh tiểu tốt thì đời nào được thầy hỏi đến xuất thân, sự nghiệp khi còn trên trần thế, hơn thế nữa, phù thủy là tướng, âm binh là quân, đời nào có cái nhẽ không phân biệt chủ tớ. Ý kiêu ở đây là cho đối phương biế trong tay Cao Tiến có đến năm trăm tinh binh, cứ theo cái phép tuyển binh mà Tiến làm nãy giờ thì có thể hiểu năm trăm âm binh này đều thuộc hạng cao cường. Đây là ý muốn chuyển từ trận “chế” sang trận “dụ”, nếu vong không đồng ý thì sẽ quyết chiến.
– Ta là Thuận Thiên Khai Vận Đại Nhân, tự là Nguyễn Danh Phương. Cái thứ mèo què như nhà ngươi mà cũng dám thu ta sao?
Tiếng của vong thực phát ra không rõ ràng, giống như tiếng nói ừ hữ của người đang buồn ngủ, mỗi câu mỗi chữ đều khó khăn. Cao Tiến giật mình kinh hãi.
Nguyên là Phương người làng Hẻo xã Vĩnh Yên, từ bé đã khỏe mạnh, thông minh, thường lấy việc đánh trận giả làm vui, vì ngộ tính cao nên từ đó quen việc điều binh khiển tướng, sau này lại học được thuật phong thủy cao thâm, bèn đem táng mộ cha vào địa thế phát vương, vì thế ai cũng tin rằng Phương sẽ làm nên nghiệp lớn, gọi là “đại nhân”, tiếng tăm tại địa phương rất cao. Sau này, đến năm Canh Thân[1] có hai người là Tế và Bồng làm loạn ở đât Sơn Tây, Phương bèn theo Tế lập được nhiều công lao. Nhân dân ở khắp nơi cảm phục lắm, gọi Phương là quận Hẻo vì coi Phương xứng làm quận công. Đến khi Tế bị triều đình bắt được, đem chém đi thì Phương thống lãnh dư đảng tạm xin hàng. Chúa Trịnh vì còn bận đánh Nguyễn Hữu Cầu mà tục gọi là Quận He nên dù cũng không tin Phương nhưng cũng tạm đồng ý cho hàng. Sau đó Phương phát triển được lực lượng, đem một vạn quân về đất Việt Trì , rồi lại chạy sang Làng Thanh Linh, Bình Xuyên, Thái Nguyên, cuối cùng lập đại đồn ở núi Ngọc Bội, đắp thành lũy kiên cố, đưa nguồn nước từ Tam Đảo xuống tạo thành một căn cứ địa được nước bao bọc, gây được ảnh hưởng tới tận đất Tuyên Quang. Xây cung điện, may vật dụng, đúc tiền, lập thành nước riêng, gồm cả triều đình trong vòng mười năm trời ngay bên cạnh Thăng Long thành. Mãi đến năm Canh Ngọ[2] Phương mới bị danh tướng họ Trịnh là Nguyễn Phan phá được. Sau bị chúa Trịnh Doanh bắt được, chém đầu tại kinh sư. Mặc dù xuất thân cũng là phường giặc cỏ nhưng những việc như thế, người thường không làm được, âu cũng là bậc anh hùng trong thiên hạ. Không ngờ đến gần ba mươi năm sau, linh hồn vẫn vất vưởng mà lưu lạc đến đây. Mặc dù Phương không khác gì vua trong lãnh địa của mình nhưng danh không chính ngôn không thuận, lại có thời gian quá ngắn, sự nghiệp lại lay lắt như ngọn đèn dầu, thành ra mới chỉ đạt được mức “soái vong” chứ chưa đạt được mức “đế vong”.
Cao Tiến xem ra vong này mạnh lắm, nhưng một là đã cưỡi trên lưng hổ, khi nào có thể bỏ giữa chừng, hai là bất cứ phù thủy nào cũng mong có được một mạnh vong như thế, mà có khi cả đời không có duyên gặp được, đây chẳng phải vận may trời cho sao?
Nên nhớ rằng, các vong cũng cực kỳ oán hận những trận “chế”, cũng như người ta sẽ oán hờn những kẻ đang không bắt mình về làm nô lệ vậy. Lúc này, xem ngữ khí của Phương thì khó có thể chuyển thành trận “dụ” được. Cao Tiến không nói nữa, hú một tiếng dài, tiếng hú này làm cho Quyết nằm dưới hố ù cả tai, mà tựa hồ như mắt cũng mờ đi. Nhưng trong tiếng hú vẫn nghe tiếng cười ha hả ma quái của Phương, tựa hồ như nhạo báng.
Qua một lúc lâu, lại có tiếng gió. Quyết có cảm giác như lại có một đám vong khác đang tụ đến, chỉ khác là đám vong này không ồn ào như đám trước, mà những bóng trắng sáng hơn, đi lại có hàng có lối, tuần tự, khoảng cách vong trước vong sau đều đặn, không sai lệch một tấc, giống như một đội quân được huấn luyện rất cặn kẽ, tỷ mỉ. Đội quân này, khi tiến đến gần Phương thì chia làm năm tốp, bốn tốp vây lấy Phương, một tốp tập trung bảo vệ Tiến.
Phương cười ha hả, bóng tía tách ra một đốm nhỏ bằng nắm tay. Cái nắm tay này lóe rực sáng lên rồi lao về mé tây bắc. Bóng này vừa lao đến vòng vây, lập tức có vài bóng trắng tan mất, rõ ràng là năng lực của “soái vong” không phải là hư danh. Chỉ trong chớp mắt, Phương đã hạ được bảy tám âm binh của Tiến. Rõ ràng đây là một vong cực quý.
Tiến cả kinh, nhưng vẫn giữ được phong độ của một tay lão làng. Mặt không biến sắc, giọng không rung động, hắn liên tục niệm tụng để tăng cường ma lực cho binh lính. Đột nhiên, thấy hắn hô lớn:
– Nhập!
Lập tức, cứ năm bóng sáng dồn lại thành một bóng. Nguyên đây là phép luyện quân rất đắc ý của Tiến. Lão gọi đây là “hợp hồn trận pháp”. Trong trận này, cứ lấy sức năm binh hợp thành một bóng. Bóng này sức mạnh bằng mười lần binh thường. Như vậy, tuy số quân chỉ còn khoảng một trăm nhưng thực ra, ma lực của toàn quân đã tăng lên gấp đôi so với bình thường. Lúc này cái đốm kia của Phương chỉ sáng hơn mỗi bóng của Tiến một chút.
Tiếp đến, Cao Tiến lại lấy một cái bình rót ra sáu cái chén. Gã ném cái chén ra thành hai hàng, mỗi hàng ba chén, nước trong chén vương vãi trên mặt đất, tạo thành hai đường thẳng cách nhau một trượng, vong của Phương ở giữa hai đường thẳng đó, tạo với bàn lễ thành một đường thẳng, hợp với hai đường thẳng kia thành ba đường song song mà bàn lễ ở giữa. Nguyên là trong cái bình của Tiến là phân và nước tiểu của năm loại súc vật bao gồm dê, bò, lợn, trâu, ngựa, cùng với tiết của chúng. Thứ nước này vốn đã có tính trừ tà, thêm vào đó lại được yểm thêm bùa của Tiến để tăng sức trừ ma. Với “soái vong” thì nếu chỉ năm riêng phân, nước tiểu và máu của năm loại súc vật kia thì không chắc đã trấn được, nhưng lại thêm loại bùa của Tiến, thành ra không tài nào đến gần được hai đường song song đang vẽ trên đất. Lẽ dĩ nhiên là bị kẹp hai đường thẳng này. Giả như Tiến mà vẽ thành hình vuông hay tròn hoặc một hình đa giác kín thì vong sẽ bị nhốt trong đó, lập tức biến thành một cái hố đẩy vong trôi thẳng xuống địa phủ. Nhưng Tiến muốn thu vong hơn là phế vong, vì thế chỉ kẻ hai đường chứ không tạo thành hình tứ giác hay hình tròn kín. Tiến vừa muốn phục ma, lại vừa muốn giữ nguyên ma lực của vong.
Phương lúc này thấy mình bị ép mạnh bởi hai vạch nước xú uế, rất lấy làm kinh hãi vì thông thường những thứ kỵ ma làm từ máu và chất thải động vật không có tác dụng với “soái vong”, không ngờ thứ nước hôi thối này, lại lợi hại thế, Phương cảm thấy ngay như hai vạch nước kia nóng như đống lửa lớn mà mình thì đứng rất gần, làm hơi nóng hấp thẳng vào thể. Trước sau đều bị hãm xú uế, Phương biết mình gặp phải tay cao thủ, không thể coi thường được, đành phải lùi về phía cách xa bàn lễ định thoát ra khỏi hai vạch nước. Nào ngờ, nhanh như chớp, ba tốp binh của Tiến đã chặn đường lui này. Đột nhiên thấy ánh sáng tía từ thể của Phương sáng lòe lên, đoạn lao tới phía của âm binh đang chặn. Nguyên là Phương vận lực muốn đẩy tung đám quân này ra để mở đường máu chạy thoát. Nào ngờ đám âm binh sau khi hợp nhau lại từng tốp năm binh một thì mạnh mẽ vô cùng. Khi Phương lao đến, đụng vào bức tường âm binh này thì chỉ có một vong đứng trực diện với Phương bị áp chế, tan biến mất, còn lại đều vẫn giữ nguyên đội hình, lấp kín cửa ra, lớp trước ken lớp sau khiên cho Phương không thể thoát ra được. Nếu như Phương muốn phá vòng vây mà thoát ra thì bắt buộc phải áp chế hết toán binh có đến sáu bảy chục hợp vong này, đến lúc vượt được hết vòng vây, e rằng ma lực cũng suy sút trầm trọng. Điều đáng lo hơn là bức tường âm binh này không đứng yên mà dần di động tiến về phía Phương, tuy tiến chậm nhưng rất vững vàng. Tựa như bức tường này lấy thủ làm công, không cầu thắng ngay mà chỉ ép Phương về phía bàn lễ.
Phương quay lại, thấy Tiến đang đứng giữa bàn, xung quanh có khoảng hai ba chục hợp binh bảo vệ. Lúc này Tiến đã lấy trong túi ra một cái túi đen rất nhỏ, trong túi có một viên tễ đen to bằng ngón tay cái. Nguyên là với mỗi hạt đậu bình thường, Tiến dùng làm nơi trú cho một âm binh trú thân, vì vong không có thân, chỉ có thể, nên phải lấy một hạt đậu làm nơi cho thể trú ngụ, riêng viên tễ này, gã đã điều chế rất công phu để thay hạt đậu, chỉ dùng để trú thể cho quý vong. Loại tễ này giống như một nhà ngục cho vong, nó có thể có sức hút rất lớn gọi vong từ rất xa về quy phục, lại có thể giam vong không cho hiện ra, nhưng nếu thầy phù thủy muốn thì vong lại thoát ra rất dễ dàng.
Theo như tình thế trước mắt, thì Phương bị đẩy dần vào về phía thầy phủ thủy Tiến, sớm hay muộn cũng bị bức phải gieo thể vào viên tễ kia. Nhưng không thử cũng phải thử, không muốn cũng phải làm, quay lại đối mặt với Tiến là cách duy nhất lúc đó. Mà nhìn tình thế bấy giờ, có điều hơi kỳ lạ, đó là tại sao phần lớn âm binh dồn vào một phía, phía còn lại chỉ có Tiến và một toán nhỏ âm binh bảo vệ. Nhưng “soái vong” Nguyễn Danh Phương cũng không còn nhiều thời gian suy nghĩ, đành lao trực diện vào bàn lễ, định hất tung tất cả, tìm cách tháo thân. Nào ngờ, khi lao đến còn cách bàn chưa đến hai tấc thì hắn bị đẩy bật ngược lại, mạnh mẽ đến mức bóng tía văng cả vào bức tường âm binh đối diện, bật ngược trở lại. Nhất thời Phương chưa hiểu tại sao, sững lại, không có phản ứng gì.
Lúc này Quyết nằm dưới hố, thấy từ đầu đến cuối những chuyện lạ kỳ xảy ra ngay trước mắt. Kinh ngạc tự nhủ không biết những chuyện lạ lùng này có phải là giấc mơ không. Đang lúc hết sức căng thẳng, không gian trở nên im ắng. Quyết muốn ho một tiếng cũng phải cố nín lại, sợ mình phát ra tiếng động thì hậu quả khó lường. Đột nhiên, có tiếng khóc sau lưng Tiến. Ban đầu tiếng khóc rất nhỏ, nhưng dần dần, tiếng khóc to lên, mà rõ ràng là tiếng khóc của một hài nhi. Rồi từ sau lưng Tiến, xuất hiện một ánh sáng nhỏ. Cái ánh sáng này lơ lửng bay lên cao quá đầu Tiến rồi ngừng lại. Đây chính là báu vật hộ thân của Tiến, được gọi là “hài nhi bùa”.
Loại bùa hài nhi này, là loại bùa cực mạnh trong các loại bùa. Bùa này được chế từ thai nhi còn đang trong bụng mẹ, mà thai nhi này phải được lấy ra khỏi mẹ khi người mẹ vẫn còn đang sống, hay nói cách khác là mổ sống người mẹ để lấy ra, người mẹ không được chết cho đến khi hài nhi được lấy ra hoàn toàn. Tiếp đến, hài nhi này bị đem hong khô trên bếp lửa để teo quắt lại, đặt vừa trong một ống nứa. Ống nứa này thường được thầy phủ thủy đeo bên mình. Vì hài nhi chưa biết những hành vi tàn độc của người cha ruột nên theo lẽ tự nhiên, rất quấn quit với người cùng máu mủ, mà do chết oan ức khi chưa được thấy ánh mặt trời, nên sức mạnh rất đáng sợ, sẽ theo bản năng mà bảo vệ phù thủy. Thế nhưng loại bùa này chỉ có tác dụng bảo vệ, không thể sai bảo vì hài nhi vẫn còn vô tri vô giác, thì làm sao mà hiểu được chủ nhân muốn gì. Rốt lại, oán hồn của hài nhi cũng chỉ được xếp vào hạng bùa chú hộ thân, không phải âm binh là vì lẽ đó. Vì cách chế bùa tàn độc như vậy, nên chế ra “hài nhi bùa” cực kỳ tổn hại âm đức, gần như có thể biết chắc khi chết đi sẽ bị quỷ dưới âm ty truy bắt ráo riết vì phàm là những kẻ đại ác thì khi chết đi, tùy theo mức độ nặng nhẹ mà sẽ bị truy bắt ráo riết hay không, sau đó, khi xuống đến âm phủ thì mức độ tàn khốc của hình phạt cũng theo đó mà được định đoạt. Vậy nên, càng tổn hại âm đức, con người ta càng sợ hãi khi chết đi. Với cách chế loại bùa này, thực con người đã dã man thua cả loài súc vật, nếu không có chuẩn bị trước, sớm hoặc muộn sẽ bị đày ải vĩnh viễn dưới âm phủ.
Không rõ Cao Tiến đã chuẩn bị hậu sự cho mình ra sao, nhưng trước mắt, trong tay hắn có báu vật yểm thân là “hài nhi bùa”, đủ mãnh mẽ để áp chế vong của Nguyễn Danh Phương. Tình thế này, Phương sớm muộn cũng không tránh khỏi bị bắt về làm nô tướng cho người ta. Phương lúc này như con thú bị dồn vào chân tường. Biết rằng không thể nào thoát được ở mặt có Cao Tiến, đành phải cố gắng phá vòng vây dày đặc để thoát ra. Có điều đám hợp binh này được rèn luyện cực kỳ kỹ lưỡng, Phương liên tiếp áp được gần chục hợp vong nhưng cứ hết lớp này đến lớp kia, áp sát vào, đẩy Phương tiến dần đến phía Tiến.
Qua thời gian một tuần hương, Phương bị ép sát cách viên tễ kia không quá nửa trượng, phải vận hết ma lực mới khỏi thoát bị hút vào. Mà càng gần viên tễ, lực hút càng mãnh liệt, thành ra bây giờ, chỉ một lúc nữa là sẽ bị bức cho tới mức bị hút vào viên tễ kia. Thắng bại ở trận này đã rõ ràng, chỉ là hổ dữ bị dồn vào đường cùng vẫn xứng danh chúa sơn lâm, không đời nào cúp đuôi như giống chó khuyển. Lúc này Tiến cũng cả mừng, sốt ruột chờ đến khi thu được “soái tướng” mạnh nhất trong đời gã.
Đột nhiên Tiến thấy trên mặt thấy một hạt mưa. Trời bắt đầu mưa, một cơn mưa tháng bảy. Cơn mưa lớn dần. Tiến biết rằng trận pháp này của mình thắng lợi một phần lớn là do hai vạch nước gã vạch ra trên mặt đất kia, nếu như mưa xói trôi nước phép của gã, thì chuyến này kể như vuột mất một cơ hội lớn trong đời, khác gì Gia Cát Lượng tại Thượng Phong Cốc vây hụt Tư Mã Ý. Trong lòng bất an, gã bèn hô quân tiến mạnh tới.
Nhưng một là Phương lúc này cũng nhận ra tình hình nên cố sức chống lại bức tường hợp binh chứ không bỏ mặc như trước nữa. Hai là tâm thần Tiến lúc này vừa hồi hộp vừa hoang mang, không giữ được thần thái như khi bước vào trận tử chiến vừa rồi nên việc niệm trợ lực cho quân kém sút đi. Từ diễn biến đó, thành ra bức tường kia tiến kém uy lực hơn. Thời gian chùng trình như thế thực là rất bất lợi cho Tiến. Chỉ trong khoảnh khắc, tình thế hoàn toàn thay đổi.
Lúc này trời mưa dữ dội, làm cho nước phép bị trôi đi nhiều, Phương thấy thế, dồn hết lực nhảy vọt được ra khỏi hai hàng nước phép. Toán hợp binh cạnh Tiến lập tức xông lên phía trước, Phương cũng cực kỳ nhanh nhẹn chuyển hướng, thành ra lúc này đang hướng thẳng vào cái hố chôn xác mà muốn băng qua.
Tiến cả kinh, nhưng đột nhiên trong lúc cấp bách nghĩ ra một biện pháp. Gã lập tức cầm viên tễ ném thẳng về phía Phương. Phương không cách nào thoát được liền bị hút thẳng vào viên tễ. Viên tễ bay thẳng vào hố chôn người, mất hút.
Tiến mừng lắm, định xua quân đi tìm. Nhưng vừa lúc đó có tiếng gà gáy. Thì ra trời vừa hứng sáng. Đám âm binh lập tức nhập vào các hạt đậu, tập trung lại ngay ngắn trên bàn lễ. Tiến đành phải tự mình đi tìm. Gã tìm mãi xung quanh không thấy đâu. Bèn bịt mũi nhìn xuống hố. Gã giật mình kinh hãi thấy trong hố có một thằng bé gầy quắt queo đang cử động. Thằng bé này còn sống, đó chính là Phạm Đình Quyết.
Ngày ấy chuyện người còn sống bị vứt xuống hố chôn xác không phải là hiếm. Tiến liền mặc kệ thằng bé mà tiếp tục tìm trong hố. Chợt nghe tiếng thằng bé gượng nói:
– Ông… Không tìm thấy đâu.
– Vì sao? Tiến hỏi lại.
– Nước…
Tiến lại lấy nước cho Quyết uống, lại thấy lạ kỳ, là theo lẽ thường thì người đói đòi ăn chứ có đời nào đòi uống nước? Gã đang phân vân thế thì lại nghe Quyết nói:
– Cho tôi… Ăn đã… Tôi sẽ… nói…
Tiến nghĩ gã ăn xin này nói nhăng cuội, mục đích chỉ là muốn ăn cơm, uống nước, thế nên gã cứ bỏ mặc Quyết mà tìm. Gã tìm một lúc lâu, đến lúc mặt đất đã sáng rõ mà vẫn chưa tìm ra thì gã cực kỳ sốt ruột. Gã đành quay lại nói với Quyết.
– Nói đi, rồi ta cho ăn.
– Ăn… Ăn đã…
Tiến thấy thằng bé này, cả người không thấy một chút thịt nào, mắt lồi đến gần nửa tròng, chỉ là một bộ da bọc xương, chắc chắn là đói lâu ngày.Nếu không khéo hắn sẽ chết trong khoảng khắc, mà tìm thì cũng không biết tìm ở đâu, thành ra Tiến đành phải nhượng bộ mang đồ lễ đến cho Quyết. Đầu tiên gã đưa Quyết một bát cháo. Gã rất rõ, những người đói lâu ngày rất dễ chết vì ăn quá no, mà trên bàn cũng vừa sẵn mấy bát cháo để cúng vong. Xem tình hình Quyết bây giờ thì sợ rằng ăn thức ăn rắn quá dạ dạy cũng không đủ sức tiếp nhận, nên gã lấy cháo để hắn ăn.
Quyết húp lấy húp để, dù chỉ là cháo hoa lẫn với nước mưa nhưng có lẽ đối với Quyết đây chính là món ngon nhất trong thiên hạ. Chỉ trong chốc lát hắn đã hết một bát cháo lớn. Hắn đưa tay xin thêm một bát nữa, Tiến liền đưa hắn một bát nhỏ hơn, Quyết cũng húp hết. Qua một lúc, Tiến vặn hỏi Quyết, Quyết ngập ngừng một lức mới dám nói:
– Tôi… Tôi…
Tiến thấy Quyết ấp úng không thành câu, lại sốt ruột đoán mình bị gã ăn mày này lừa bịp, thành ra quát lớn:
– Làm sao???
Hắn quát to quá, Quyết ù hết tai lại, tự nhiên ngất đi. Tiến cả kinh sợ hắn chết mất, lại phải lấy ít nước tạt vào mặt Quyết. Phải qua một lúc, Quyết mới tỉnh lại, mà rằng:
– Tôi nuốt mất rồi!
Nguyên là, khi Tiến ném viên tễ về phía Phương thì Phương bị hút vào đó, nhưng viên tễ này theo đà bay thẳng về phía Quyết. Lúc đó, Quyết thấy Phương tiến thẳng về phía mình, há hốc mồm kinh hãi, thì vừa vặn viên tễ bay thẳng vào miệng. Theo phản xạ, Quyết nuốt luôn viên tễ đó, nhưng viên tễ to quá, khiến hắn mắc nghẹn. Thế nên mới có chuyện người sắp chết đói đòi uống trước khi ăn. Đó là vì lúc đó viên tễ đang nghẹn trong cổ họng Quyết, hắn cần uống nước để nuốt trôi viên tễ kia. Tiến ngẫm một lúc, nhận ra được chân lý này, vừa tiếc vừa tức, giang tay tát Quyết một cái nghe đánh bốp.
Hắn tức giận là vì nếu ngay lúc đó móc họng tên ăn mày này ra thì đã lấy được viên tễ rồi, làm gì phải cho hắn ăn uống nữa. Nhưng còn một điều quan trọng hơn, đó là tính chất dị thường của viên tễ này. Loại tễ này nguyên là hắn được chân truyền từ sư phụ hắn, khi đó sư phụ hắn kể rằng, loại thuốc này được chế ra để phù thủy có thể chỉ thu một binh mà đủ sức hoành hành thiên hạ. Sư phụ hắn công phù tìm tòi thử nghiệm nửa đời mới chế ra được, nó được đặc biệt chế ra để nuốt vào bụng. Một khi viên tễ được nuốt vào thì lập tức mọc rễ, trở thành một phần cơ thể mình, cũng sống như một sinh vật vậy, nếu người còn thì viên tễ còn, nếu người chết thì viên tễ chết theo, từ đó vong mà mình mang cũng tan theo. Thêm vào đó nữa, để chắc chắn rằng kẻ thù không mổ sống bụng phù thủy ra để đoạt mạnh vong, viên tễ được sư phụ gã luyện sao cho ngay khi máu dính vào thì lập tức mất công dụng. Thứ tễ này gọi là “cộng sinh hoàn” là vì lý do đó. Thế nghĩa là, ngay lúc này, Quyết đã có một mạnh vong ẩn trong người!
Ban đầu, Tiến cực kỳ tức giận, chỉ muốn đem Quyết ra giết luôn. Nhưng nghĩ lại, nếu giết Quyết thì gần trăm âm binh tổn thất tối qua mà hắn thu lượm bấy lâu coi như uổng phí. Hơn thế nữa, Quyết có “soái vong” trong người nhưng không biết điều khiển, vì hắn không biết niệm chú để cho lúc nào thì thả vong ra, lúc nào thì thu vào, làm thế nào để vong phục tùng theo, vậy nên, dù Quyết có muốn thì mang vong bên mình cũng vô dụng. Gã thầm tính chi bằng cứ mang Quyết theo, phủ dụ hắn mà dùng thì hay hơn. Thêm nữa, việc sợ âm binh vật lại cũng không cần phải lo lắng nhiều quá vì về lý mà nói thì Quyết mới là chủ vong chứ không phải hắn. Càng nghĩ, Tiến càng thấy mừng thầm rằng việc chẳng hề xấu mà trái lại, thực là cực kỳ hoàn mỹ. Chỉ duy mang theo một thằng nhóc con thì cũng hơi bất tiện, thì đành coi như nuôi một con chó con mèo bên mình vậy.
Tính toán xong đâu đấy, hắn đưa Quyết nấp đi vì sợ quan binh hỏi đến. Đợi đến trưa, liệu chừng Quyết đã hồi sức, hắn cho Quyết ăn một trận thỏa thích. Hắn chỉ ngăn Quyết lại vì e hắn ăn nhiều quá nguy hại đến tình mạng. Xong xuôi đâu đấy, Tiến gói ghém đồ đạc lại. Số lễ hắn mang theo bình thường thì hắn cũng không dùng đến nhưng vì có Quyết nên hắn mang theo một ít. Còn thì hắn mang ra vứt ngoài đường.
Lúc đó, trên con đường làng, dân đói đang đầy đường mà bỗng dưng cả một bàn lớn thức ăn được vứt ra ngoài, lập tức mọi người tranh nhau ăn uống. Xung quanh chỗ thức ăn Tiến vứt ra, chẳng bao lâu người đói tụ lại, vòng trong vòng ngoài, tranh dành nhau kịch liệt. Có người đói đến thế, mà còn lao vào đánh nhau dành giật. Cảnh tượng này, chắc cũng không khác cảnh các vong hồn tranh nhau đồ ăn nhà người ta cúng ma tối hôm qua là bao xa, nghĩ cũng thật nực cười, dương gian thành ra biến thành âm giới rồi chăng?
Muốn biết số phận Phạm Đình Quyết sẽ ra sao, xin xem hồi sau sẽ rõ.
[1] 1740

[2] 1750

Theo dõi
Thông báo của
0 Góp ý
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận