Đại Nam Di Truyện – Tác Giả Phan Cuồng
Hồi thứ sáu: SÀO HUYỆT PHÙ THỦY
Lại nói đến chuyện Quyết ở trong nhà của Tiến. Hàng ngày, Tiến cho Quyết ăn uống rất đầy đủ, mà thức ăn toàn là thứ ngon vật lạ trên đời. Đêm đến Quyết có hẳn một phòng riêng với chăn êm nệm ấm để ngủ, ngày ngày có một bà cụ vào dọn dẹp phòng cho hắn. Suốt ngày hắn chẳng phải làm gì cả. Mặc dù đối xử với Quyết tốt như thế nhưng Tiến ít khi nói chuyện với hắn, thái độ thờ ơ lạnh lùng. Điều này Quyết cũng không mấy để tâm, đôi lúc còn mừng vì chuyện một tên phù thủy tàn ác như Tiến để ý quá đến mình phỏng có gì là hay ho?
Nhà của Tiến nằm tách biệt trong một mé rừng phía bắc Nhị Hà???, đây cũng là việc rất lạ lùng vì thông thường thì phàm là tay chân của quan Chánh đường[1] được cấp dinh thự riêng ở ngay trong thành Thăng Long, chỉ riêng mình Tiến ở trong một dinh thự được xây dựng to lớn, bề thế rộng rãi và tách biệt như thế.
Ngày ấy, giặc giã nổi lên khắp nơi, ngay cả gần kinh thành, mà trộm cướp vẫn xảy ra thường xuyên, thế nên vào năm… chúa Trịnh Sâm đã phải cho đắp lại thành Đại La, là lớp tường bao bọc bên ngoài của Thăng Long, những phương buôn bán mặc dù ở ngoài bức tường ấy cũng được lựa thế sông ngòi che chở để tránh bớt sự cướp bóc. Vì vậy, phía bên kia sông Nhị Hà mặc dù cách thành không bao xa nhưng dân cư thưa thớt, rừng rậm um tùm, đến nỗi sử sách còn ghi lại những lần cọp đen, voi trắng xuất hiện trong thành.
Đương nhiên, Quyết là một đứa trẻ quê mùa, không thể nào hiểu được những điều này. Hắn chỉ biết rằng việc ở một nơi hoang vu tĩnh mịch như thế thực là buồn chán. Chẳng những thế, trong nhà Tiến hình như không có mấy người hầu hạ. Quyết chỉ thấy một bà già thường hay quét dọn nấu nướng trong bếp, bà cụ này cũng không thích nói chuyện, cả ngày chỉ chuyên tâm làm công việc của mình, thế nên hắn cũng rất ít khi nói chuyện.
Trong dinh thự của Tiến, có một khoảng sân rất rộng… có một ngôi ở chính giữa dinh thự bao giờ cũng đóng cửa. Ngôi nhà này đươc xây dựng rất kỳ công tỷ mỷ, rường cột, vì kèo đều làm từ loại gỗ tốt, sơn son, tòa nhà này cao có đến năm trượng. Có mấy lần Tiến muốn vào đó xem thử nhưng Tiến nạt hắn, cấm không cho vào. Quyết thấy thế cho là Tiến cất giấu của cải quý báu gì trong đó, cũng không hỏi thêm gì nữa, từ bấy về sau cũng không bao giờ đả động đến chuyện vào căn phòng.
Có một đêm, khi hắn đang nằm ngủ thì chợt tỉnh giấc. Không gian tối đen như mực, hắn dậy thắp một ngọn nến. Bấy giờ là một đêm đầu tháng tám, hắn chợt nghe thấy có tiếng động phát ra từ phía căn nhà lớn. Căn nhà lớn cách phòng hắn khá xa, vì thế hắn cũng không chắc đấy là tiếng động từ căn nhà lớn hay là tiếng từ phía rừng vọng lại. Hắn ghé mắt ngó qua cửa sổ, thấy căn nhà lớn không có ánh đèn, rõ ràng là không có ai. Hắn đoán chắc có lẽ là mình nghe nhầm, vì thế hắn đi ra nhà tiêu đi tiểu rồi lại lên giường định ngủ tiếp. Nhưng rồi hắn lại nghe thấy âm thanh ban nãy.
Đó là một tiếng khóc.
Tiếng khóc này dường như là của một người đàn bà. Hắn cố nghe thật kỹ, hình như là người đàn bà này đang nói một từ:
-Không!
Hắn cảm thấy lạnh cả sống lưng. Vì hắn đang sống trong nhà một tên phù thủy mà lại nghe tiếng khóc như ma như quỷ thế kia, thì khác nào được nghe những câu chuyện nhát ma trong dân gian vẫn kể lại?
Rồi tiếng động ngưng hẳn. Chỉ còn lại bóng đêm, tuyệt nhiên không nghe thấy bất cứ một tiếng động nào nữa. Không gian tự nhiên im ắng thế này, thực là có điều gì đó không ổn, vì nơi này xung quanh là rừng, ít nhất thì cũng có tiếng những loài động vật ăn đêm, hoặc tiếng gió thổi cành cây đưa. Nhưng bây giờ, tuyệt không có một tiếng động nào nữa. Dần dần, hắn thiếp đi.
***
Qua đêm hôm sau, Quyết có ý chờ xem sự việc kia có lặp lại nữa không nên nằm lắng nghe suốt cả buổi tối. Tuyệt nhiên không có gì khác thường xảy ra. Hắn vẫn nghe thấy tiếng động của những con chim, kêu cúc cù, cúc cù, những tiếng lá xào xạc va vào nhau do nhưng cơn gió mùa thu. Đó là tiếng của rừng núi. Không hề có tiếng khóc than.
Đến chừng nửa đêm, mọi tiếng động lại im bặt hắn cảm thấy đúng cái cảm giác của đêm hôm trước. Mọi thứ vẫn im lặng như thế, im lặng đến mức hắn tưởng như tai mình bị ù sau khi ăn một cú đấm trí mạng. Mặc dù hắn không phải là kẻ sợ ma nhát quỷ, nhưng trong cái không khí như thế này, cũng không khỏi kéo tấm chăn đắp lên người, nằm lùi về phía góc tường. Được một lúc sau, thấy mệt quá, Quyết lại thiếp đi.
Không biết bao lâu sau, hắn giật mình tỉnh dậy vì nghe tiếng khóc ngày hôm qua, lần này hắn chờ tiếng không của người đàn bà kia. Nhưng chờ hồi lâu mà chỉ thấy tiếng khóc, thỉnh thoảng lại nghe một tiếng ậm ừ như của một người bị một vật gì chẹn trong họng không nói được thành tiếng. Cuối cùng, không có từ “không” như hắn chờ đợi. Rồi mọi tiếng động lại tắt hẳn.
Qua đêm thứ ba, mọi việc lại diễn biến y như những ngày trước. Chỉ có điều lúc này tiếng khóc không còn rõ ràng nữa, mà dường như chuyển sang tiếng gầm gừ nhiều hơn. Rồi mọi chuyện lại trở lại bình thường.
Trong lòng Quyết lúc này có rất nhiều nghi vấn, không hiểu tại sao lại có những âm thanh lạ lùng như thế. Rồi hắn tự nhủ:
“Cái gã xấu xa Cao Tiến này, chuyện gì cũng có thể làm được, chẳng biết hắn đang định làm gì nữa đây, ta cũng cứ mặc kệ, hắn cũng chưa hại gì đến ta”.
Rồi hắn mặc kệ mọi chuyện, đắp chăn đi ngủ tiếp.
Qua ngày thứ tư, Quyết đã định trong lòng, cũng không quan tâm chờ đón tiếng động kia nữa, yên tâm định ngủ một mạch.
Đột nhiên, có một tiếng động lớn vang động cả núi rừng. Tiếng động này vừa dứt, tiếng chim vượn trong rừng xao xác như chạy trốn. Rõ ràng, đây là thứ âm thanh đặc trưng của một loài mà ai cũng kinh hãi.
“Mãnh thú ư?” – Hắn nghĩ thầm, “chẳng lẽ nơi này có ác thú?”
Hắn lại dỏng tai nghe ngóng lần nữa. Nhưng lạ thay, chỉ có một tiếng gầm duy nhất rồi im bặt, mọi việc lại trở lại yên tĩnh như trước.
Chợt một luồng gió mạnh thổi tung cửa sổ cạnh hắn. Ánh trăng sáng lùa vào phòng. Hắn thấy rất rõ, trên mặt đất, một bóng hình quái gở lay động. Quyết giật bắn mình, lùi về sau quá mạnh, hắn thấy như từ phía sau lưng có ai nện mạnh vào mình một cú trời giáng. Hắn thấy hoa cả mắt mũi, đóm đóm mắt nổi lên, trong phút chốc hắn không nhận ra vật gì trước mắt cả. Theo phản xạ, hắn giơ tay khua khắng phía trước.
Phải một lúc sau hắn mới định hình lại và nhìn rõ mọi vật. Phía trước hắn, cái vật trên mặt đất vẫn lắc lư không ngừng trên nền trăng sáng.
Đó là một cái bóng cây.
Quyết thở phào sau khi nhìn kỹ vật trên đất. Thì ra khi nãy hắn hoảng hốt quá, nên vọt về phía sau, lại đụng trúng bức tường, thành ra mới tưởng có ai vừa đánh mình. Cuối cùng thì vẫn chỉ có một mình hắn trong căn phòng kia, chẳng có điều gì bất thường cả. Hắn thở phào tự chửi mình nhát gan.
Sau khi định thần lại, hắn đứng dậy, thắp đèn lần nữa rồi đi ra đóng cửa sổ lại. Trước khi cánh cửa khép lại với nhau, tạo nên một khe hở chỉ độ một ngón tay, đột nhiên trước mặt hắn có một bộ mặt đầy máu, rũ rượi, tóc chờm cả lên mắt. Bộ mặt này nhìn hắn hồi lâu. Lúc này Quyết cũng sững cả lại, không kịp phản ứng gì.
Qua một lúc, mắt hắn và đôi mắt của bộ mặt kia nhìn nhau chằm chằm không chớp. Quyết thấy mắt mình hoa cả lên, từ ánh nhìn lạnh lẽo kia, hắn cảm thấy có một luồng khí lạnh làm cả người lạnh toát đến tê buốt như là lõa thể giữa trời đông, bụng hắn nhộn nhạo như muốn nôn, nhưng cả cơ thể cứng đơ như khúc gỗ, không thể làm gì được.
Rồi hắn thấy trong ruột nóng ran, từ bụng hắn, một luồng khí nóng bốc ra cuồn cuộn làm hắn cảm thấy dễ chịu hơn. Dường như luồng nóng này phát ra xung đột với luồng khí lạnh khi nãy. Từ đây, hắn cảm thấy như lúc nóng lúc lạnh. Khi thì như phát sốt, khi thì run lên cầm cập thật khó chịu khổ sở vô cùng.
Phải đến một tuần hương, Quyết cứ đứng chăm chăm nhìn vào bộ mặt kia như thế mà nóng mà lạnh. Rồi chợt ánh mắt kia biến mất. Khi ánh mắt kia vừa rời khỏi mắt Quyết, hắn lập tức bủn rủn tay chân, ngã vật ra sàn. Nhưng đầu óc hắn vẫn rất tỉnh táo, hắn biết rõ ánh mắt kia ở đâu ra.
Ánh mắt sau cửa sổ, là ánh mắt của Cao Tiến.
***
Sáng hôm sau, Quyết tỉnh dậy thì thấy mình đang nằm trên mặt đất. Thì ra vì hắn mệt quá nên ngủ luôn mà không kịp vào giường. Lúc này nghĩ lại, hắn thấy kinh hãi vì chuyện tối qua. Nhưng cũng chưa biết nên làm thế nào.
Hắn bước ra khỏi phòng, lại nhìn thấy Tiến đang ở ngoài sân tập hít thở. Tiến nhìn thấy hắn, thoáng cười. Dường như hắn giả vờ như không có chuyện gì xảy ra tối qua. Quyết thấy thế, cũng gượng cười lại. Rồi cả hai cùng vào nhà ăn ăn sáng. Hôm nay bà cụ làm món bún riêu cua mà Quyết rất thích, hắn toan quay sang cảm ơn bà thì thấy tay bà cụ băng bó rất kỹ, hỏi ra thì bà bị thương khi thái hành.
Chẳng ngờ Tiến đùng đùng nổi giận, mắng bà cụ làm không cẩn thận. Rồi hắn nói:
– Bà nhanh làm cho xong cơm trưa rồi vào phòng. Cấm bà ra khỏi phòng hôm nay.
Bà già cun cút vâng lệnh, đi làm ngay. Quyết trong lòng có chút áy náy cho bà cụ, lại tức tên Tiến gian ác đối xử không có tình người.
Ngày hôm đó, Quyết lại ra bến sông ngồi. Bến sông này, rất là nhộn nhịp những tàu buôn từ Phố Hiến đổ về. Các thuyền này đa số là của người Đại Việt, ít khi thấy thuyền của người Tàu, những thuyền bè của người phương Tây càng khó gặp hơn. Nguyên là chúa Trịnh khi đó cấm không cho người nước ngoài buôn bán ở kinh thành, thế nên hàng hóa phải tập trung ở phố Hiến rồi mới chở bằng các thuyền nhỏ về kinh. Nhưng vì nhu cầu giao dịch rất lớn nên bến thuyền này vẫn rất tấp nập.
Quyết ngồi trên đê hồi lâu và suy nghĩ lại chuyện xảy ra tối qua. Hắn không hiểu tại sao Tiến lại nhìn mình với cái ánh mắt như thế, mà trên mặt hắn lại có rất nhiều máu, rồi tiếng khóc trong đêm khuya. Tất cả mọi chi tiết hắn đều rất tò mò muốn giải thích cho tường tận mà không thể.
Quyết đang suy nghĩ miên man như thế thì bỗng có tiếng gọi hắn. Hắn quay lại thì thấy ông già cầm cỗ áo quan hôm nọ đi cùng là một ông cụ khác.
Cụ Trác đến gần Quyết mà nói rằng:
– Cậu bé ơi, ta đi tìm cậu mấy hôm nay mới gặp.
– Ông tìm cháu có việc gì thế? Quyết hỏi lại. Ông đừng dùng tấm áo kia để liệm nhé!
Cụ Huyền đi bên cạnh thấy thằng bé không hề để bụng chuyện hôm nọ mà vẫn lo lắng cho người ta, trong lòng thấy rất là quý mến. Cụ Trác cũng thật cảm kích mà nói rằng:
– Ta muốn tìm để cảm ơn cậu bé thôi.
Quyết thưa:
– Cháu không cần ông cảm ơn đâu. Cháu biết thì cháu nói cho cụ thôi.
Hai người gặp được Quyết thì mừng lắm. Nguyên là sáng sớm hôm đó đã đến tìm cụ Trác, nói là biết chỗ Quyết đang ở đâu, nhưng không biết nhà, vì thế giục cụ đi Trác đi gấp về hướng Bắc, đến giờ thìn thì gặp được Quyết đang ngồi thơ thẩn trên bến sông này. Ba người vào một quán nước nhỏ mà trò chuyện. Ông cụ Trác lấy cho Quyết mấy cái kẹo lạc giục cậu ăn. Quyết ăn một cái, còn mấy cái cất vào túi định để dành. Cụ Trác hỏi han một hồi về bố mẹ Quyết. Quyết lần lượt đem chuyện gia đình mình kể một lượt. Nghe xong cụ Huyền nói:
– Tôi nghe từ lâu họ Phạm có tiếng tăm trong nghề này. Không những thế, đời trước tích đức truyền đến đời sau, nổi tiếng khắp kinh thành cùng các trấn xung quanh. Hôm nọ thấy cậu bé còn nhỏ mà đã có kiến thức nhưng vẫn chưa nghĩ ra. Thực đúng là con nhà tông, thật đáng khen ngợi. Có điều bây giờ cậu bé này bơ vơ chẳng có ai nương tựa, ông biết làm thế nào mà duy trì được cuộc sống đây.
Cụ Trác cũng không biết phải trả lời thế nào, rồi chợt như nhớ ra chuyện gì, ông cụ nói:
– Cậu cho ta xem mạch cậu một chút được chăng.
Quyết cũng chưa hiểu chuyện gì nhưng cũng đưa tay ra. Cụ Trác xem mạch hồi lâu rồi lại đưa tay Quyết cho cụ Huyền xem. Cụ Huyền cũng cẩn thận kỹ lưỡng xem xét hồi lâu rồi nói:
– Quả tôi cũng thấy như cụ.
Trong lúc Quyết còn chưa hiểu chuyện gì thì hai cụ già đưa mắt nhìn nhau hồi lâu. Trong lòng hai người đều thấy khó hiểu. Qua một lúc, Cụ Huyền nói:
– Cậu bé, không hiểu cậu vì sao mà từ trấn Sơn Tây lưu lạc đến đây.
Quyết từ khi bố mất đến giờ, chẳng còn người nào thân thích, cũng chẳng có ai để nói chuyện cùng. Từ khi đi cùng Cao Tiến thì lại càng lặng lẽ, hai người hiếm khi nói với nhau một câu nào. Hôm nay gặp được hai ông già này, đều là những người ăn nói nhã nhặn, tỏ rõ lòng quan tâm tới mình. Trong phút chốc, Quyết cảm thấy thật gần gũi và tin tưởng. Thế là Quyết kể lại đầu đuôi câu chuyện từ khi nạn đói.
Khi đến đoạn hắn muốn ăn thịt người chết để sống, hắn hơi ngập ngừng, sợ hai ông cụ trước mắt coi mình là giống man di mọi rợ, khinh rẻ mình, nên giọng hắn hơi trầm lại và ngập ngừng đôi chút. Cụ Trác nghe thấy thế thì hiểu ngay tâm ý của Quyết bèn nói xen vào:
– Cháu đã làm đúng, không thể để mình chết trừ khi không còn cách nào khác. Chẳng ai có thể đánh giá một người có phải là người tốt hay không chỉ dựa vào chuyện đó cả.
Quyết nghe thế cảm động lắm. Vì thực ra trong thâm tâm hắn cũng rất day dứt vì chuyện này, mặc dù chuyện đó chưa xảy ra, nhưng hắn cũng nhiều lần tự thấy ghê tởm. Thế là hắn không ngại ngùng nữa, kể hết một lượt từ chuyện đêm rằm tháng trước gặp Cao Tiến ra sao, hắn lập “thu vong trận” thế nào, rồi chuyện gặp Nguyễn Danh Phương, chuyện nuốt viên tễ… Ngay cả đến chuyện tối qua nghe tiếng gầm thế nào, thấy đôi mắt bên cửa ra sao, tất cả đem ra kể hết một lượt, rất cặn kẽ tỷ mỷ. Riêng cuộc nói chuyện của Vũ và Tiến, vì Quyết ở xa mà hai người lại nói nhỏ, thêm nữa hắn cũng không chú tâm lắng nghe nên cũng không rõ câu chuyện. Chỉ có ba từ vương tử Cán là hắn nghe rất rành rọt, bèn đem kể lại.
Đến khi xế trưa, câu chuyện mới kết thúc. Lúc này, Quyết thấy hai ông cụ vẫn chăm chú lắng nghe rất chăm chú. Hắn thở dài một cái rồi ngừng nói.
Cụ Trác nghe xong câu chuyện của Quyết thực là kinh hãi vô cùng, vì cả đời cụ không tin có ma quỷ. Nhưng thấy Quyết kể tường tận và tỉ mỉ từng chi tiết như thế thì thật là khó có thể bịa đặt ra được. Chợt cụ Huyền lên tiếng:
– Thì ra là thế, giờ ta mới hiểu vì sao trong người cháu có đến hai loại mạch.
Cả Quyết và cụ Trác đều rất ngạc nhiên, không hiểu, nhất thời cùng thốt lên:
– Vậy mong cụ nói rõ cho.
Cụ Huyền chậm rãi:
– Cũng không có gì là khó hiểu cả, vì cái viên tễ cháu nuốt trong bụng có lẽ là một loại pháp vật có tên là “cộng sinh hoàn”. Loại pháp vật này có chỗ rất là độc đáo, khi nuốt vào nó sẽ mọc rễ trong ruột, không tài nào tiêu hóa được, thành ra rốt cục thì nó sẽ trở thành một vật mang vong trong người của phù thủy rất thuận tiện. Không những thế, nếu cháu biết pháp niệm của nó thì hoàn toàn có thể sai khiến được vong đó. Chẳng những thế, nó cũng sẽ giống như một vật hộ thân cho phù thủy đó, bất cứ khi nào có huyền thuật hãm hại cháu thì vong trong người cháu sẽ tự động cảm ứng mà chống lại.
Quyết rất bất ngờ vì không thể tin là mình đã nuốt cả một hồn ma vào trong bụng. Lúc này cụ Trác ở bên cạnh lại nói:
– Nếu như vậy, thì chuyện hôm qua khi cậu bé thấy bụng nóng ran có phải là do viên tễ đó không?
Cụ Huyền đáp:
– Chính phải, ta đoán có lẽ cháu bị tên Cao Tiến dùng “nhiếp tâm thuật” tìm cách thôi miên, nhưng “soái vong” trong người cháu phản ứng lại, thành ra cháu vẫn tỉnh táo đến khi Tiến bỏ đi.
Quyết lại hỏi:
– Nhưng hắn thôi miên cháu làm gì? Cháu ở cùng chỗ với hắn, ngày ngày nhìn thấy nhau, sao hắn không tìm lúc khác mà lại phải chờ đến đêm mới làm trò nhát ma dọa quỷ cháu như thế?
Cụ Huyền lại nói:
– Điều này ta cũng chưa rõ.
Cụ Trác nói:
– Nếu cháu muốn loại viên tễ ra khỏi cơ thể, ta có một bài thuốc có thể giúp làm điều đó.
Cụ Huyền ngăn:
– Ấy, không nên, tạm thời không nên làm thế. Bây giờ vật đó khác gì bùa hộ thân cho thằng bé này. Nếu trục được viên thuốc đó ra khỏi cơ thể, không những thằng bé gặp nguy hiểm, mà vong hồn kia phải đi theo đường xú uế mà thoát ra, thì hồn siêu phách tán, còn gì cơ hội đầu thai.
Cụ Trác đáp:
– Nếu không thì cũng không sao, cháu về sống với ta, ta sẽ nuôi cháu, cháu không sợ bị đói đâu.
Cụ Huyền từ tốn nói:
– Thưa cụ, tôi nghĩ thế này, Tôi thấy tên Cao Tiến này phép thuật cao thâm khó lường, độc ác như thế, hẳn là có âm mưu gì không hay, e rằng có hại đến vương tử Cán hay chăng. Nếu không nhờ cậu bé quay lại nơi đó để tìm hiểu xem thế nào, thì khó mà biết được ngọn ngành, tránh được hậu họa xảy ra.
Rồi cụ quay sang hỏi Quyết:
– Cậu bé, cậu có sợ không? Bây giờ ta muốn cậu quay lại theo dõi Tiến để cứu người. Không những cứu được một người mà không chừng cậu cứu cho Thăng Long tránh được một cuộc binh đao lớn đây.
Quyết đáp:
– Quả thực cháu cũng hơi sợ, nhưng cháu vẫn dám về nhà hắn.
Lúc này bụng cụ Trác không muốn để Quyết ở lại vì e ở lâu sinh biến không hay cho Quyết chăng. Nhưng một là cụ là nhà nho, lấy trung quân làm đầu, cũng biết chuyện của thế tử là hệ trọng, không thể xem nghe được. Hai là tiếp xúc ít lâu với Trịnh Cán, dù không được gặp mặt nhiều nhưng cũng có cảm tình.
Cụ Huyền biết tâm ý cụ Trác bèn nói:
– Cậu bé có biết vì sao cậu nhìn thấy vong nhưng không bị vong vật hay không?
Cả hai người, Quyết và cụ Trác đều rất bất ngờ khi cụ Huyền hỏi thế. Quyết mặc dù trước đó đã biết rằng nhìn thấy âm binh khi âm binh đang bị điều khiển thì sẽ bị âm bị diệt khẩu, đấy là lẽ thường. Nhưng từ khi đó đến nay, hắn không hề hấn gì cả, cũng thấy rất lạ.
Quyết bèn nói:
– Cháu thực cũng không biết, không hiểu tại sao lại như vậy nữa.
Cụ Huyền quả quyết:
– Vì bản thân cháu cũng có căn phù thủy!
Nghe cụ Huyền nói, cả Quyết và cụ Trác đều kinh hãi. Nguyên là rất hiếm có người có được căn đồng cốt phù thủy. Những phường đồng cốt bói toán yểm bùa trưng ra cho thiên hạ biết đều là phường lừa bịp, gạt tiền người ta mà sống, chỉ có lá gan to bằng trời mới không sợ những chuyện mạo danh như thế.
Cụ Huyền lại nói tiếp:
– Trên thế gian này, vốn có hai loại người, loại người thứ nhất là loại người không thể nhìn thấy ma quỷ hiện hữu trên nhân gian, loại người thứ hai có thể nhìn thấy được. Người nhìn thấy được ma quỷ lại phân làm hai hạng thứ nhất là nhẹ vía, là những người dễ bị vong hồn ám ảnh, trấn áp, nhập vào, những người như thế ngửi thấy mùi hương đã thấy mắt hoa đầu váng, chỉ chực lên đồng, giống như một cơ thể trống rỗng sẵn sàng mời gọi ma quỷ nhập vào mình vậy, xét cho cùng thì đây cũng là những người dễ dàng bị sai khiến bởi linh hồn người đã chết. Hạng người thứ hai là hạng tâm thần linh mẫn, tinh linh tráng kiện, nhìn thấy ma quỷ coi như chuyện bình thường, giống như người ta thấy người đồng loại mà thôi. Nếu những người thuộc hạng này mà chẳng những không sợ hãi mà còn có khả năng trấn áp, dọa nạt, thì thực đó là người có căn phù thủy rồi, bởi phù thủy thì xét cho cùng cũng chỉ đơn giản là những người có quyền năng điều khiển những vong hồn nơi âm giới. Thế gian này, phàm là điều gì cũng vậy, cũng phân ra có người tài giỏi, có người tầm thường, bởi vậy nên, phù thủy cũng được phân thành năm ba loại. Loại nhất phẩm là loại không cần phải cúng bái, cầu khấn, không cần lập trận pháp vẫn có thể sai khiến ma quỷ, với người có căn nhất phẩm phù thủy thì phàm là “quan vong” hay “soái vong” đều có thể thu nạp được trong tích tắc, có thể nói đây là tuyệt nhân trong huyền giới, thực là không biết mấy trăm năm mới có được một người, thế nên loại nhất phẩm này không thể tu luyện mà thành được, chỉ có thể nhờ trời cho khi sinh ra đã có tố chất như thế. Loại nhị phẩm là loại vẫn phải lập trận để có thể thu nạp được những vong hồn mạnh mẽ bậc nhất, thậm chí cả đến “quan vong” và “soái vong” cũng có thể bị áp chế. Có điều đối với hạng nhị phẩm này nếu không áp được vong thì vong cũng không có cách nào hại được mình. Người đạt được đến hạng nhị phẩm thì ngoài tố chất trời cho phải qua rèn luyện cực kỳ hà khắc không thể nào xao lãng một ngày một đêm nào. Hạng tam phẩm là thấp hơn hạng nhị phẩm một cấp bởi khi gặp vong mạnh quá thì không đủ khả năng áp chế được mà ngược trở lại, bị hồn ma nhập vào, bị hồn đó khống chế hành vi, ý thức, không tài nào cưỡng lại được. Tôi đoán rằng tên Cao Tiến chỉ thuộc loại tam phẩm này thôi. Cứ tuần tự như vậy người ta phân ra đến nhị thập phẩm phù thủy, tùy vào tố chất của bản thân và công phu luyện tập mà có được bản lĩnh cao hay thấp. Loại thập nhị phẩm là những người nhẹ vía hoặc người không thấy được ma quỷ nhưng quyết tâm tu tập để có thể thâu nạp được một số ma đói khát, làm những việc bình thường. Thực chẳng giấu gì hai người, tôi đây cũng chỉ là phù thủy hạng thập phẩm, tuy có chút tố chất nhưng chỉ có thể “dụ” các vong hồn làm ma xó đi thám thính tin tức cho mình mà thôi, tuyệt nhiên không thể làm nên việc lớn.
Cụ Huyền lại nói:
– Theo như tôi thấy, cậu bé này chí ít ra cũng thuộc hàng ngũ phẩm, mà tùy theo mức độ tập luyện, có thể đạt được mức độ cao hơn.
Dường như thấy hai người bán tín bán nghi, cụ Huyền nói tiếp:
– Thưa cụ, tôi cũng xin cụ thứ lỗi vì đã không nói sớm cho cụ biết, nhưng vì tôi thân đang chuẩn bị một việc lớn, nếu để lộ ra nhiều người biết thân thế thì việc có thể không thành. Thực ra tôi hành nghề địa lý, mọi người thường gọi tôi là Tả Ao. Cho nên những chuyện huyền thuật, bùa phép cũng có đôi chút kiến thức.
Hai người nghe xong câu này, còn kinh ngạc hơn nữa, vì nguyên là thời bấy giờ, trong dân gian khắp cả đàng Trong lẫn đàng Ngoài đều bàn tán nhau về một nhà địa lý phong thủy tên là Tả Ao, có biệt tài xem thế đất mà táng huyệt mộ. Ai cũng tin rằng, chỉ cần được cụ Tả Ao an táng cho thì con cháu người được táng sẽ hưởng phúc. Không những thế, cụ Tả Ao còn có thể nói đúng được ngày tháng phát vượng của cả nhà, thực là điều hiếm có.
Tả Ao chỉ là hiệu của người đó, tên thực của cụ là Vũ Đức Huyền như cụ đã nói thật với cụ Trác. Người ta đồn rằng thuở nhỏ, cụ mồ côi cha, nhà nghèo, mẹ mắt lòa, ông theo một khách buôn ở phố Phù Thạch về Tàu để lấy thuốc chữa bệnh cho thân mẫu. Thầy thuốc khen Tả Ao có hiếu nên hết lòng dạy cho. Khi có thày địa lý bị mù loà mời ông thày đến chữa, do già yếu nên ông thày sai Tả Ao đi chữa thay. Khi Tả Ao chữa khỏi mù loà, ông thày địa lý nhìn thấy Tả Ao nghĩ bụng: Người này có thể truyền nghề cho được đây. Tả Ao cũng có ý muốn học, vả lại thấy Tả Ao thông minh, hiếu học, để trả ơn chữa bệnh nên thày địa lý nọ đã truyền hết nghề, hơn một năm đã giỏi. Để thử tay nghề của học trò, ông thày bèn đổ cát thành hình núi sông và vùi một trăm đồng tiền ở các huyệt đạo, rồi bảo Tả Ao tìm thấy huyệt thì xuyên kim xuống. Tả Ao đã cắm được chín chín kim đúng lỗ đồng tiền (chính huyệt), chỉ sai có một. Tả Ao về nước Nam chữa khỏi bệnh cho thân mẫu. Rồi người ta còn thêu dệt rất nhiều câu chuyện xung quanh cụ.
Trong cuộc đời cụ Tả Ao, ai cũng tưởng có hai lần bái người ta làm thầy, một người là thầy dạy thuốc, người thứ hai là thày dạy phong thủy, cả hai người đều là người Tàu. Nhưng cả hai lần cụ đều bái nhầm sư. Người thày thứ nhất thì dạy cụ không đến hết nghệ, chỉ dạy nửa chừng, làm cho khi chữa bệnh thì chỉ có thể thuyên giảm, mà không cách gì dứt hẳn bệnh. Thành ra mặc dù cụ Tả Ao rất mực đam mê y nghệ nhưng cũng không dám hành nghề thuốc lâu dài, sợ ảnh hưởng đến sinh mạng người khác.
Người thứ hai thì dạy cụ nghề phong thủy địa lý nhưng thực ra tính tình người giỏi nghề ngày xưa vẫn luôn vẫn có ý giữ riêng tuyệt nghệ cho bản thân, thành ra chỉ điểm không hết. Nào ngờ cụ học một mà biết mười cho nên chỉ được bày vẽ sơ sài cũng đã tinh thấm được nguyên lý trời đất. Đến khi người thày kia hối cũng không kịp, đành phải thốt lên “Nghề của ta đã sang nước Nam mất rồi”.
Có điều, câu nói trên không những cho thấy cái nhỏ mọn của người thầy, mà còn lộ ra cái thiếu thốn về học thức. Nhiều người chỉ biết cụ Ao có người thầy trên mà không biết được, đó là những điều cụ Tả Ao học được, cụ không dùng đến bao nhiêu, vì cuốn thánh kinh trong nghề phong thủy phải kể đến là cuốn “Táng thư” do Quách Phác khởi thảo, sau được rất nhiều nhà học giả Tàu biên soạn bổ sung chủ yếu dựa vào thuyết âm dương ngũ hành. Mà lật lại thuyết âm dương ngũ hành thì phải kể đến “Kinh dịch”, đó là nguyên lý vạn vật trời đất của người Tàu.
Khi lần đến khởi thủy của cuốn “kinh dịch”, lại phải nói đến hai bức Hà đồ và Lạc thư. Tương truyền vào thời Phục Hy trong Tam Hoàng thời thượng cổ, trên sông Hoàng Hà xuất hiện một con Long Mã[2], trên lưng có những điểm đen trắng cấu thành một bức đồ; Phục Hy theo đó mà diễn ra Bát quái, bức đồ này gọi là “Hà Đồ”. Còn về bức “Lạc Thư” trên sông Lạc Thủy xuất hiện con thần quy, trên lưng có thư gọi là Lạc thư. Do đó mà người ta đặt ra bát quái và cửu chương. Thực ra ngay cả người Tàu cũng không thể rõ chắc chắn được nguồn gốc Hà Đồ và Lạc Thư từ đâu mà có. Chỉ có điều người ta thêm ngang bớt dọc, suy luận từ đó mà thành được “kinh dịch”. Không phải ai cũng biết được Hà Đồ hay Lạc Thư, vốn là của người Đại Việt cổ. Việc này sẽ bàn luận thêm ở sau. Chỉ có điều, cụ Tả Ao khi đó có được cơ duyên được truyền nghệ từ người thầy thứ ba, là một người Đại Việt am hiểu về hai bức họa đồ và nguyên lý dịch chuyển của trời đất truyền thụ cho, chẳng thế mà có được bản lĩnh cái thế thiên hạ, nổi danh khắp trong ngoài nước. Người thầy này lại có ý muốn mai danh ẩn tích nên suốt đời cụ Tả Ao chưa bao giờ nhắc đến với ai, chứ xét như thói quen giữ kín bí mật nghề của người Tàu, đến nghề dệt lụa nuôi tằm hoặc như giống cây vừng đen???? cũng cố ý giữ riêng cho dân tộc mình, thì lý nào lại có thể mang cẩm nang của vụ trụ đi truyền thụ cho người khác?
Lại nói đoạn cụ Tả Ao nói tiếp:
– Vì tôi quen thuộc với chuyện an táng như thế, nên ngay khi cậu bé nói về cỗ áo quan tôi đã biết đúng là cậu bé có học thức rồi. Còn những chuyện về bùa ngải, điều khiển âm binh tôi cũng đề được biết qua. Mà nghe cậu bé kể chuyện tối hôm qua, tôi chợt nhớ đến một điển tích, bây giờ chưa sáng tỏ mọi nhẽ, cũng không dám nói bừa, nhưng nếu quả đúng như vậy, thì thực là việc này nghiêm trọng khó lường, cần phải xem xét cẩn thận. Nếu không có thì thôi, còn nếu có, thì hậu quả cũng không thể xem thường.
Cụ Trác nói:
– Nếu cụ đã nói như vậy, thì lại phải vất vả cho cháu một phen rồi.
Ba người ngồi bàn bạc với nhau một lúc, trời đã đến trưa. Cụ Huyền giảng giải cho Quyết nghe những điều cơ bản về huyền thuật để hắn có thêm hiểu biết khi ở trong nhà của Tiến. Phải biết rằng huyền thuật lúc bấy giờ là một nghệ cực kỳ khó hiếm người có hiểu biết sâu xa. Mặc dù cụ Tả Ao là thầy địa lý nhưng kiến thức uyên thâm, hiển nhiên đã có người tận tình chỉ điểm trước đó. Những tay phù thủy hay những người có kiến thức về huyền thuật rất hiếm khi tiết lộ cho người ngoài, còn như chuyện nhận làm học trò thì có khi cả đời thầy mới có được một học trò. Nếu không phải Quyết có cơ duyên được gặp cụ Tả Ao thì chắc cả đời hắn cũng không bao giờ biết được những phép tắc cơ bản ngoài nhận biết mấy loại trầm hương hoặc mấy lá bùa yểm áo quan. Hôm nay một là mặc dù Quyết đã có “soái vong” hộ thân nhưng tình thế vẫn rất nguy hiểm, có thể nguy đến tính mạng. Hai là cụ Huyền cũng rất quý mến anh chàng nhà quê thật thà dũng cảm này, nên mới phá lệ mà truyền lại những hiểu biết cơ bản. Tất nhiên, bể học vô biên, không thể một sớm một chiều mà nói hết được.
Thấm thoắt đã gần đến trưa, cụ Trác mời hai người về nhà mình ăn cơm, nhưng Quyết từ chối, sợ mình đi lâu quá thì Tiến sinh nghi. Hai ông cụ nghĩ cũng phải, đành để cậu về nhà Tiến, trước khi về còn hết sức dặn dò cậu rằng phải cẩn thận, rằng khi cần thì gặp cụ Tả Ao ở đâu. Cụ Huyền đưa cho cậu một viên pháo thăng thiên. Viên pháo này đúng bằng ngón tay trỏ, rồi cụ nói chỉ cần đốt viên pháo này thì cụ Huyền sẽ đến. Quyết cất viên pháo vào người, nghĩ rằng đằng sau mình còn có người giúp đỡ thì lập tức thấy phấn chấn hơn. Hắn chào hai cụ rồi thẳng hướng bắc Nhị Hà ra về.
Quyết ra bến sông chờ đò để quá giang nhưng hôm nay phiên chợ, thuyền buôn tấp nập nên không có đủ chỗ cho hắn ngồi, hắn phải chờ rất lâu mới có thuyền cho đi nhờ. Thế nên đến quá ngọ Quyết mới về đến nhà Tiến. Hắn hơi lo lắng vì sợ Tiến nghi ngờ. Nhưng bước vào nhà ăn, hắn chỉ thấy cơm canh đã dọn sẵn. Bà cụ dọn dẹp dường như đã ăn cơm rồi đi nghỉ trưa. Hắn tuyệt không thấy Tiến đâu. Cả căn nhà lớn như vậy dường như chỉ còn mình hắn.
Quyết mở lồng bàn??? ăn cơm ngon lành. Từ khi hắn về với Tiến đến nay, cũng đã gần một tháng, mà bữa nào cũng cơm canh đầy đủ, thịt cá ê hề, thành ra cơ thể còm cõi ngày nào của hắn giờ đã dần có da có thịt, mặc dù vẻ hốc hác vẫn chưa nhòa hẳn. Vì vừa qua cơn chết đói, nên Quyết quý trọng mọi bữa cơm, bữa nào hắn cũng đánh chén no nê đến không ăn nổi nữa mới thôi. Cũng may, Tiến không hẹp hòi những chuyện đó.
Quyết tự xới tự ăn được chừng lưng bát thứ hai thì hắn lại nghe thấy tiếng khóc.
Kỳ lạ, đang giữa trưa mà vẫn có tiếng khóc. Mấy hôm nay hắn để ý thì thấy chỉ có tiếng khóc lúc buổi đêm, ban ngày tuyệt đối không nghe thấy.
Tiếng khóc phát ra từ căn nhà lớn. Quyết nghĩ, nếu không phải lúc này tranh thủ nhòm xem có gì kỳ lạ trong đó thì còn chờ khi nào nữa?
Nghĩ sao làm vậy, hắn bỏ đũa đi thẳng tới hướng có tiếng khóc. Nhưng căn nhà được xây bằng gỗ tốt, cửa dày bọc đồng mà khóa thì thực chắc chắn, thế nên Quyết không làm sao mà vào được. Hắn đi quanh một vòng để xem có sơ hở gì không nhưng vô ích. Hắn tìm kiếm kỹ càng hồi lâu thì thấy một khe cửa sổ nhỏ có thể nhòm được vào bên trong.
Phía trong căn nhà tối đen như mực, dường như chẳng có một tia sáng nào có thể lọt được vào bên trong. Hắn thấy vậy bèn hỏi khẽ:
– Có ai trong đó không?
Không có tiếng trả lời. Quyết gọi luôn mấy lần như thế nhưng không dám gọi to vì sợ bà lão đang ngủ trưa thức dậy. Qua một hồi lâu không thấy ai đáp lại. Hắn bèn nghĩ ra một cách, hắn tìm một cành cây, gõ vào cột nhà. Cách này vừa không tạo tiếng động lớn mà người trong nhà lại có thể nghe rất rõ.
Nhưng tuyệt nhiên vẫn không có tiếng đáp lại. Quyết lại rướn người, ngó nghiêng nhìn vào bên trong. Nhưng hắn chẳng thấy gì. Chỉ thấy phía bên kia, có một cửa sổ phía đối diện được ánh nắng chiếu vào, ánh nắng tạo thành một vệt sáng trên mặt đất, nhờ thế mà hắn có thể nhìn thấy rõ là cánh cửa đó được chẹn ngang bởi một thanh gỗ, thanh gỗ này được đặt trên hai cái móc gắn chặt với cửa, mỗi cái móc gắn mở một cánh, thế nên khi đặt thanh gỗ lên đó thì tạo thành thế khóa cứng cánh cửa, không thể mở ra, từ đó khóa lấy cánh của từ bên trong.
Hắn nghĩ bụng “có lẽ tất cả các cửa sổ đều được khóa bên trong như thế”. Thực ra, cái kiểu chốt ngang cửa bằng thanh gỗ như vậy rất phổ biến thời đó, có điều, đây cũng là loại cửa rất dễ mở, vì chỉ cần lấy một vật mỏng, luồn vào khe, hất ngược từ dưới lên thì thanh gỗ kia bị hất lên theo, cuối cùng lại rơi xuống đất. Hắn nghĩ đến đây, bèn chạy xuống bếp, tìm một con dao nhỏ rồi đến bên cửa sổ, luồn dao vào phía trong rồi thận trọng đẩy lưỡi dao lên trên.
Quả đúng như hắn dự đoán, thanh gỗ chèn ngang cửa dễ dàng bị con dao hất ra khỏi cái móc, thanh gỗ liền rơi xuống đất. Chẳng chờ Quyết đẩy ra, cánh cửa sổ lúc này đã mở toang trước mặt hắn. Nguyên là vì khi nãy lúc đưa con dao lên, hắn đã tỳ người vào cánh cửa, nên lúc thanh gỗ rơi xuống đất, mà cánh cửa tuy to nhưng rất linh hoạt, bị lực tì của Quyết đẩy ra.
Quyết do dự đôi chút, vì trong căn phòng rộng lớn lúc này, có một bàn thờ rất lớn, trên có đặt một bức tượng Quan công, sau lưng tường dán rất nhiều loại bùa vẽ chằng chịt những hình thù quái gở mà hắn không hiểu rõ công dụng. Mặc dù vậy nhưng Quyết cũng hiểu đây chính là bàn thờ âm binh của Tiến. Nguyên là người luyện âm binh thường thờ một vị tướng dũng mãnh khi sinh thời hoặc các vị thiên tướng trên trời để trợ thêm oai lực cho mình.
Lại có một tiếng động phát ra từ trong phòng, Quyết rất lấy làm lạ vì rõ ràng căn phòng trống không, không hề có người. Hắn quyết định nhảy hẳn vào trong phòng để xem cho rõ.
Trên bàn thờ có rất nhiều nến, trong người Quyết lại có sẵn bùi nhùi giữ lửa, hắn bèn thắp lên một cây, đi xung quanh phòng một lượt.
Nhưng Quyết tuyệt nhiên chẳng thấy gì khác lạ. Trong căn phòng chỉ có bàn thờ lớn đó, và một cái bàn nhỏ đặt bên cạnh để đặt các thứ đồ lễ cúng linh tinh.
Khi hắn đang tiến đến góc phía đông của căn phòng, bởi hắn đi nhanh quá nên ngọn nến bị tắt mất, thành ra Quyết lại phải loay hoay tìm cách thắp lại. Phải một lúc sau ngọn nến mới sáng được trở lại. Quyết vừa ngẩng đầu lên thì lập tức hắn thấy trước mặt mình một thân hình cao lớn đang đứng sừng sững nhìn chằm chằm vào hắn. Trong lúc hoảng hốt, theo phản xạ, hắn giơ chân đạp mạnh vào người đó.
Có điều chân Quyết vừa chạm vào đó thì đau buốt đến thấu xương, Quyết than thầm, nghĩ có lẽ mình đã bị gãy xương hoặc trật khớp mất rồi. Trong lúc đau đớn, hắn làm rơi mất ngọn nến, lại một lần nữa, ngọn lửa tắt ngấm, mọi vật lại chìm trong bóng tối.
Thật kỳ lạ, người trước mặt hắn chịu hết một cú đá vẫn đứng trơ trơ như không có chuyện gì xảy ra. Gã đứng trước mắt hắn, dường như nhìn hắn chằm chằm nhưng hoàn toàn bất động. Quyết vừa ôm chân vừa nhìn lại người đó. Thành ra trong bóng tối, hai người đứng trân trân nhìn nhau không dứt.
Qua một lúc, khi mắt Quyết đã quen với bóng tối hơn, hắn thấy nghi ngờ, bèn bạo gan đánh lửa châm nến một lần nữa. Người trước mặt hắn vẫn chỉ đứng im
Ánh lửa làm Quyết nhìn thấy rõ người đứng trước mặt hắn. Hắn gần như phá lên cười. Đó là vì trước mặt hắn chỉ có một bức tượng màu đen, làm gì có kẻ ác nào? Nguyên là bức tượng này được đúc đúng bằng hình dạng người bình thường, lại có màu đen, khiến cho trong đêm tối, Quyết không nhận ra được, nhất thời thần hồn nhát thần tính. Bức tượng này đường nét rất tinh xảo, tạc hình người, nhưng mặt mũi người này rất hung giữ, mũi khoằm mắt dài, mày mỏng, gò má cao, miệng nhe ra dữ tợn làm lộ rõ hai răng nanh dài đến nửa ngón tay, đây không biết có phải là tạc người không nữa.
Quyết nghĩ thầm “mặc kệ ngươi được tạc hình gì, miễn là ngươi không động đậy được là tốt rồi”. Lúc này hắn thấy chân đã đỡ đau nhiều, lúc nãy đau dữ dội như vậy có lẽ chỉ là do hắn đá vào vật cứng quá mà thôi. Có lẽ công phu quyền cước của tiểu tử chết đói chưa đủ sức làm hắn tự gây thương tích cho mình. Đang lúc nghĩ như thế, hắn lại nghe thấy tiếng động lúc nãy, rõ ràng là tiếng người. Chẳng những thế, tiếng động này, phát ra từ ngay dưới chân hắn. Quyết soi đèn nhìn xuống chân mình. Chưa kịp nhìn kỹ thì hắn lại nghe thấy tiếng động phát ra từ đó. Quyết cúi hẳn đầu xuống cách mặt đất khoảng hai gang tay để nhìn cho rõ. Hắn thấy trên sàn có một vệt đen. Vệt đen này kéo dài đến nửa thước, rồi lại có một vệt đen khác vuông góc với nó, chúng giao lấy nhau, rồi lại cách nửa thước có một vệt đen nữa, cứ thế tổng cộng có bốn vệt đen tạo thành hình vuông. Trong hình vuông này còn có gắn một cái vòng bằng đồng, cái vòng này có độ lớn vừa vặn đặt một bàn tay vào. Bức tượng đen kia đặt lên trên hình vuông đó. Quyết lấy chân dậm dậm lên cái hình vuông này, qua âm thanh, hắn biết là phía dưới rỗng, hiển nhiên hắn đang đứng trên một địa phòng.
Muốn biết mọi chuyện diễn biến ra sao, xin xem hồi sau sẽ rõ.
[1] Hoàng Đình Bảo
[2] Con vật đầu rồng mình ngựa