Home Liêu Trai Chí Dị Liêu Trai Chí Dị Thập Di

Liêu Trai Chí Dị Thập Di

01. Hoàng Tịnh Nam

(Hoàng Tịnh Nam)

Hoàng Tịnh Nam lúc được trưng tập, cùng hai người Hiếu liêm lên kinh. Trên đường gặp một tên cướp khét tiếng, hai người Hiếu liêm sợ, quỳ rạp đưa tiền bạc ra. Hoàng tức giận, tay không tấc sắt nhưng lấy hai tay ôm chân y nhấc lên ném ra, tên cướp không kịp đề phòng bị ngã cả người lẫn ngựa. Hoàng sấn vào đánh y gãy cánh tay, lục túi y lấy hết tiền bạc rồi đuổi đi. Hai người Hiếu liêm phục Hoàng khỏe mạnh, giúp tiền khuyên nên tùng quân. Sau Hoàng lập được kỳ công, làm quan tới chức Tướng quân.

02. Răn Quỷ

(Dụ Quỷ)

Lúc Thượng thư Thạch Mậu Hoa ở Thanh Châu còn là Chư sinh, ngoài cổng quận thành có cái vực lớn, không có mưa cũng không cạn. Trong hạt bắt được mấy mươi tên cướp lớn, xử tử trên bờ vực, ma quỷ tụ họp ở đó phá phách, người đi qua cứ bị kéo xuống vực. Một hôm, có Mỗ đang gặp nguy cấp, chợt bọn quỷ bỏ chạy tán loạn, nói “Thạch Thượng thư tới đấy!”. Không bao lâu thì ông đi tới, Mỗ kể lại chuyện, ông lấy hòn than viết lên vách đá rằng “Thạch Mỗ ra điều cấm như sau: Xét vì suy nghĩ vô lương, đến nỗi chuốc cơn sấm sét, mưu toan bất pháp, cho nên chịu tội búa rìu. Chỉ nên bỏ lòng quỷ ý ma, lo điều sám hối, ngõ hòng rửa xương tàn cốt nát, thoát cảnh trầm luân. Các ngươi sống chịu cực hình, chết còn họp ác. Hung hăng kéo tới, xõa tóc thành bầy, nhảy nhót sấn lên, vung tay làm dữ. Bùn vàng lấp mũi, còn khoe oai quỷ oan hồn, ban ngày làm yêu, lại dám chặn đường hành khách. Ngoài núi gò ba thước, chỉ do kẻ sống trông coi, giữa trời đất hai ngôi, há để các ngươi hung dữ? Răn về sau đều nên giấu vết, chớ giữ lòng tà, đống xương bên sông Vô Định, chờ lúc luân hồi, mảnh hồn trong mộng kim khuê, về nơi cố thổ. Nếu còn giữ thói xưa, ắt có ngày hối hận”.

03. Người Đất Tấn

 (Tấn Nhân)

Mỗ người đất Tấn (tỉnh Sơn Tây) rất khỏe mạnh, tuy không học võ nghệ nhưng người học võ cũng không ai đánh lại. Mỗ qua Trung Châu, có một đệ tử Thiếu Lâm bị y dánh bại, căm hờn về kể lại với sư phụ, bàn nhau bày tiệc mời y tới để làm hại. Mỗ tới, người kia trước tiên đem trà quả ra mời, trong có hạt hồ đào để nguyên vỏ cứng rắn không sao ăn được. Mỗ nhặt lấy đặt lên mép bàn, lấy ngón tay trỏ gõ một cái, hạt hồ đào lập tức vỡ nát. Mọi người hoảng sợ, đối xử với y rất tử tế rồi chia tay.

04. Nữ Quỷ

(Nữ Quỷ)

Vương Bính ở Oanh Kiều huyện Truy Xuyên (tỉnh Sơn Đông), ra khỏi thôn thấy trong miếu Thổ địa có một cô gái đẹp bước ra, cứ liếc nhìn mình mãi. Vương buông lời ỡm ờ, nàng tươi cười vui vẻ, nhưng không có nơi nào hành sự, bèn hẹn đến đêm vui vầy với nhau. Bính nhân đó nói rõ nơi ở, tối đến quả nhiên nàng tới, cùng nhau vui thú rất nồng nàn. Bính hỏi họ tên, nàng không chịu đáp, từ đó lui tới không dứt. Bính ngủ cùng giường với vợ, cô gái cũng tới giao hoan mà vợ Bính vẫn không biết là có người. Bính ngạc nhiên hỏi, nàng mới nói “Ta là vợ thần Thổ địa”, Bính cả sợ, muốn dứt tình ngay nhưng làm đủ cách vẫn không ngăn trở nàng được. Cứ thế nửa năm, bị bệnh nằm liệt giường không dậy nổi. Người đẹp lại càng hay lui tới, người nhà đều nhìn thấy. Không bao lâu Bính chết, người đẹp vẫn mỗi ngày tới một lần. Vợ Bính quát nàng ta “Con ma dâm đãng không biết xấu hổ. Người ta đã chết, còn tới làm gì?” người đẹp bèn đi không trở lại nữa.

Dị Sử thị nói: Thổ địa tuy nhỏ nhưng cũng là thần, há lại để tho vợ tùy ý lăng nhăng, quyết không đến nỗi như thế. Không biết là con ma nào dâm đãng giả danh, khiến cho ngàn năm sau người ta còn nói thôn ấy có vị thần hèn kém bất cẩn, oan thay!

05. Đàn Ông Sinh Con

(Nam Sinh Tử)

Tổng binh Phúc Kiến Dương Phụ có tên luyến đồng, trong bụng máy động. Mười tháng đến kỳ, mơ thấy thần nhân mổ hai nách lấy con ra, hai đứa con trai kêu khóc hai bên. Trở dậy nhìn xuống dưới nách, vết mổ vẫn còn rõ ràng. Bèn đặt tên hai đứa con là Thiên Xá, Địa Xá.

Dị Sử thị nói: Xét lại thì việc này xảy ra trước khi Ngô phiên* làm phản. Sau khi Ngô làm phản, Trung thừa Mỗ nghi Dương, muốn trừ diệt nhưng sợ Dương làm loạn, bèn lấy cớ khác gọi tới. Vợ Dương trí dũng song toàn, lấy làm ngờ vực, khuyên Dương đừng đi, nhưng Dương không nghe. Vợ Dương khóc mà tiễn, trở về truyền lệnh cho các tướng, khoác giáp cầm gươm để chờ tin tức. Không bao lâu có tin chồng bị giết, bèn làm phản đánh Mỗ. Mỗ hoảng sợ không biết làm sao, may mà quân sĩ ra sức giữ thành, vợ Dương đánh không được bèn rút quân. Vợ Dương đi đã xa, Mỗ mới mặc giáp lên ngựa, kéo quân ra thành hò hét ầm ĩ, người ta kể cho nhau nghe để cười. Vài năm sau giặc bị dẹp yên, không bao lâu Mỗ bạo tử. Lúc chết thấy Dương cầm gươm bước vào, tả hữu cũng đều nhìn thấy. Than ôi, hồn ma tuy mạnh mẽ, nhưng đã không chắp lại đầu vào xác được nữa rồi! Việc sinh con đầy vẻ yêu tà, đã là điềm báo trước chăng?

*Ngô phiên: tức Ngô Tam Quế, xem chú thích truyện Bảo Trú, quyển IV

06. Nước Bọt Của Ma

(Quỷ Tân)

Lý Mỗ đang ngủ trưa thấy một người đàn bà trong tường bước ra, đầu tóc rối tung, tóc xõa xuống che kín mặt. Người ấy tới trước giường mới lấy hai tay vạch tóc để lộ khuôn mặt, da dẻ đen dủi vô cùng xấu xí. Lý cả sợ định chạy nhưng đã bị người đàn bà chồm lên glường ôm chặt lấy đầu, kề môi vào miệng Lý, dùng lưỡi đẩy nước bọt qua, thấy lạnh như băng, từ từ trôi vào cổ Lý không muốn nuốt nhưng không sao thở được, nuốt thì thấy lầy nhầy trong cổ họng, vừa hít một hơi thì trong miệng đã đầy nước bọt, nghẹt thở đành phải nuốt vào. Như thế hồi lâu, ngạt thở không chịu nổi nữa, chợt nghe ngoài cửa có tiếng chân người, người đàn bà mới buông tay ra biến mất. Sau đó Lý thấy bụng trương lên đầy tức, mấy ngày không ăn uống gì được. Có người bảo uống nước sâm lư, Lý thổ ra một vật như quả trứng trong suốt, mới dần dần khỏi bệnh.

07. Nghiện Ăn Rắn

(Xà Tịch)

Lữ Phụng Nghi là đầy tớ Vương Phủ Lệnh ở hương ta, tính nghiện ăn rắn. Mỗi khi bắt được con rắn nhỏ thì nuốt chủng, giống như nuốt cọng hành. Gặp con lớn thì lấy dao chặt ra từng khúc từng khúc, rồi bốc mà ăn, nhai nghe rau ráu, máu me chảy cả xuống cằm. Lại rất giỏi đánh hơi, từng có lần cách bức tường ngửi thấy mùi rắn, vội vàng chạy ra, quả nhiên bắt được con rắn dài một thước, lúc ấy không mang đao, bèn trước hết cắn nát đầu, đuôi còn ngoe nguẩy ngoài miệng.

08. Đầu Đà Họ Kim

(Kim Đầu Đà)

Kim Thế Thành, người Trường Sơn. Tính không cần kiệm, đột nhiên xuất gia làm đầu đà. Giống như điên khùng, ăn những vật nhơ bẩn mà cho là ngon. Chó dê ỉa đái trước mặt là cúi xuống ăn, tự xưng là Phật. Bọn đàn bà dân quê ngu xuẩn lấy làm lạ, giữ lễ đệ tử có tới hàng ngàn hàng vạn người. Kim quát bảo ăn phân, không ai dám trái lời. Xây dựng điện gác, tiền bạc không đủ, mọi người vui vẻ đóng góp. Huyện lệnh Nam công ghét vì làm việc kỳ quái, bắt tới đánh đòn, sai sửa văn miếu, môn nhân đồn ầm lên với nhau “Phật gặp nạn”, rồi tranh nhau cứu, trong một tuần cung điện ở Văn miếu đều xây xong, việc thu góp tiền bạc còn mau lẹ hơn kẻ lại tàn ác đi thu.

Dị Sư thị nói: Ta nghe Kim đầu đà, người ta đều gọi như thế, nói “Kim Thế Thành là Phật phẩm, đến nỗi ăn nhưng vật cực kỳ nhơ bẩn. Bị đánh đòn không đủ làm nhục, phạt thì lập tức có người cứu, cách xử sự của Nam công sao mà hay thế”. Nhưng xây Học cung lại nhờ tới kẻ yêu tà ăn vật nhơ bẩn, cũng là sự xấu hổ của sĩ đại phu vậy!

09. Yêu Tài

(Ái Tài)

Trong quan trường, có người có em gái vào cung làm Quý nhân sinh con. Có tướng quân Mỗ làm giúp bài khải, trong có câu “Em trai lớn lên, suốt đời cạnh mây rồng, vàng ngọc chói chang gác vẽ, xá muội phu nhân, mười năm theo kiệu phượng, xiêm y lộng lẫy ráng chiều. Chày giặt có thể cầm, trăng sương không cần đập áo, ngòi ngự có thể cậy, vịnh ngâm đâu nhọc Vân Anh*”. Quan trên phục tài, cho đổi qua ngạch văn giai, về sau làm tới chức Thông chính sứ.

*Chày giặt… Vân Anh: chưa rõ điển tích, song theo văn cảnh thì có lẽ hai câu này muốn nói vị Quý nhân kia đã sinh con với vua, không phải lẻ loi như người vợ giặt áo dưới trăng mong chồng về, cũng không phải vất vả như Vân Anh trong tích cầu Lam. Xem thêm chú thích  truyện Thụy Vân.

10 Vợ Người Nhà Buôn

 (Thương Phụ)

Thương nhân Mỗ ở Thiên Tân, sắp đi buôn nơi xa, vay tiền một người nhà giàu, bị tên trộm rình thấy. Đến đêm, y lén vào nhà núp, định chờ lúc sơ hở lấy trộm. Nhưng người thương nhân vì hôm ấy là ngày tốt, nên đã mang tiền lên đường. Tên trộm rình đã lâu, chỉ nghe vợ người thương nhân trăn trở trên giường, như không ngủ được. Kế đó, trên vách có cánh cửa nhỏ mở ra, cả phòng sáng bừng. Trong cửa có một cô gái bước ra, diện mạo trẻ trung xinh đẹp, tay cầm một sợi dây dài, tới cạnh giường đưa cho người đàn bà. Người đàn bà xua tay từ chối, cô gái cứ đưa người đàn bà bèn cầm dây trở dậy, buộc lên xà nhà, đưa cổ vào tự ải. Cô gái bèn bước ra, cánh cửa trên vách cũng đóng lại. Tên trộm cả kinh, tung cửa ra kêu ầm lên. Gia nhân tỉnh dậy đổ tới, hỏi han lý do, rồi vội xông vào cứu, nhưng người đàn bà không tỉnh lại. Liền bắt tên trộm đưa lên quan. Quan cho rằng tên trộm đã chính mắt nhìn thấy, thì không còn gì phải nghi ngờ, bèn thả y ra. Hỏi người làng, đều nói chủ cũ của nhà ấy từng có người thiếu phụ treo cổ tự tử, tuổi tác diện mạo đều giống hệt như tên trộm nhìn thấy, nên biết đó là ma. Tục truyền người chết dữ đều phải có kẻ thay thế, đúng là như thế chăng?

11. Năm Chuyện Về Rồng

 (Long Ngũ Tắc)

I.

Viên Tuyên Tứ nói ở Tô Châu, lúc mưa rào trời tối, sấm sét nổ ran. Mọi người đều nhìn thấy rồng trên mây buông xuống, vẩy trên thân rung động, trong vuốt nắm một cái đầu người, râu tóc đều nhìn thấy rõ. Giây lát bay vào trong mây đi mất, nhưng không nghe có ai bị mất đầu.

 

II.

Tục truyền rồng lấy nước dưới sông làm mưa, ngờ rằng điều đó chỉ là truyền thuyết mà thôi. Từ Đông Si nam du, ghé thuyền vào bờ sông, nhìn thấy một con rồng xanh giữa đám mây buông xuống, lấy đuôi khoắng vào nước sông, sóng nước nổi lên ầm ầm, theo thân rồng mà bay lên. Từ xa nhìn thấy ánh nước sáng loáng, rộng như tấm lụa ba thước. Giây lát đuôi rồng rút lên, mặt nước cũng yên ắng. Lát sau mưa đổ xuống như trút.

III.

Người đàn bà họ Lý ở thôn Hình huyện Truy Xuyên, chồng chết lúc đang có thai, bụng lúc chợt trướng lên như cái vò, lúc lại thu lại bằng nắm tay. Đến khi lâm bồn, suốt một ngày một đêm không sinh được. Nhìn tới, thấy một cái đầu rồng, vừa thấy người là thụt vào trong. Người nhà cả sợ, không dám tới gần. Có bà đỡ họ Vương, thắp hương võ bộ, niệm ấn bắt quyết, không bao lâu cái thai lọt ra, không thấy rồng đâu nữa. Chỉ có vài cái vẩy rơi xuống, đều to như đồng tiền. Sinh được một đứa con gái, da thịt trong suốt như thủy tinh, nhìn thấy cả tạng phủ trong người.

IV.

Huyện Bác có người dân tên Vương Mậu Tài, sáng sớm thăm ruộng, nhặt được ở bờ ruộng một đứa nhỏ khoảng bốn năm tuổi, mặt mủi đẹp đẽ ăn nói khôn ngoan, bèn đưa về nhà nuôi làm con, linh thông phi thường. Được bốn năm năm có một nhà sư tới nhà đứa nhỏ nhìn thấy, hoảng sợ bỏ trốn biệt tích. Nhà sư nói với Vương “Đó là một trong năm trăm con rồng nhỏ trong ao ở Hoa Sơn, bỏ trốn tới đây”. Rồi lấy ra một cái bát đổ nước vào, quả nhiên nhìn thấy một con rắn trắng nhỏ bơi lội trong đó, kế cất bát ra đi.

V.

Di kiên chí chép: Trong niên hiệu Hoàng Thống nhà Kim (1141-1149), phủ Hà Trung đại hạn. Thái thú là Lý Kim Ngô cầu đảo không có kết quả. Nghe nói sư Từ Huệ ở chùa Tây Nham giới luật cao thâm, được đồ đệ ngưỡng mộ, bèn tới mời.  Sư nói “Thân già không có gì có thể làm cảm động trời đất, nhưng hàng ngày lúc thuyết pháp đều thấy có một ông già tới nghe, không biết từ đâu tới, ngờ đó là rồng nên cầu khẩn y. Nhưng phải là Kim Ngô sáng mai tới đây, thành khẩn mà chờ”. Lý nói “Vâng” Quả nhiên ông già lại tới. Lý đang nói chuyện với nhà sư, nhìn thấy ông ta bước vào chùa, lập tức thắp hương trải chiếu, sai tả hữu xốc nách dìu vào, quỳ xuống lạy lục bày tỏ ý nguyện. Ông già hoảng sợ ngăn lại nói “Sứ quân quỳ lạy một ông già trong núi, xin hỏi có chuyện gì?”. Lý nói “Trời hạn gây tai họa, ngũ cốc không chín, muôn dân sẽ không sao sống nổi. Xin Long quân nhân từ, ban cho mưa ngọt, sẽ xin lập đền thờ tự, bốn mùa cúng tế để làm rõ uy linh của thần, xin thần thương cho”.

Ông già im lặng, lát sau chau mày than thở “Ồ người tiết lộ thiên cơ của ta là nhà sư, không biết ta chết lúc nào đây”. Bèn nói với Lý “Sứ quân đừng lo, ta xin đem cái chết để báo đáp”. Rồi ngoảnh lại sư nói “Ta nay vì sư mà đắc tội với trời, nhất định sẽ bị tru diệt, ta sẽ phải chết ngay, thân rơi xuống đất, nhưng không ra khỏi đất này. Xin sư chứng minh, sai dân toàn quân làm đàn tế bảy ngày bảy đêm, ngõ hầu đền đáp công đức, có thể được siêu thăng”. Sư ưng thuận, ông già bèn ra đi. Lúc ấy có một trận mưa đổ xuống ba ngày ba đêm. Ngu Khanh ngoài thành báo có con rồng chết rơi xuống chân núi. Lý dắt hết sĩ thứ, triệu một ngàn nhà sư tới đó, dựng đàn trường, mời Từ Huệ lên diễn pháp. Việc xong, thấy con rồng hiện thân trên không, nói tiếng người cảm tạ “Ta tuy bị trời giết, nhưng nhờ pháp lực cứn trợ, đội ơn diệu pháp vô thương nên đã được làm rồng cõi Bồ Đề”. Lý bèn lập miếu thờ, xin triều đình ban cho biển ngạch, lại đặt tên cho xứ ấy là hang Thương Long.

Lại như bến Dã Ngưu ở Bạch Ba Lạc Kinh gần miếu Cửu thiên huyền nữ. Trong niên hiệu Hoàng Thống nhà Kim, đêm thu nước tràn, cư dân bị lụt chết đuối, mười người có tới sáu bảy. Người phía dưới bến thấy một bầy thuồng luồng vẫy vùng trong hang vực, xô bờ phá vách, biến chỗ ấy thành ao đầm, nhà cửa đều biến mất, ruộng vườn không còn gì. Mưa lớn năm ngày năm đêm không ngớt, chợt có mấy mươi con trâu trên đỉnh núi theo dòng trôi xuống đánh nhau với thuồng luồng ở chân núi. Mây đen mờ mịt, ánh lửa chốc chốc lóe lên, qua một đêm trời tạnh, nước sông lại trở về dòng cũ. Có một con thuồng luồng dài mười trượng chết dưới cổng đền. Mạnh quân Thái thú Lạc Kinh dẫn đầu sĩ dân hai quận Lạc Dương Hà Dương trai giới mang cỗ tam sinh tới bờ sông cúng tế. Giây lát có con rồng xuất hiện trên mây, vươn cổ như tới hưởng. Hàng vạn người ngẩng nhìn, mới biết đó là vật đã biến thành trâu giết thuồng luồng. Bèn lập miếu thờ ở chỗ ấy. Chu Tùng Long kể lại như thế.

Theo dõi
Thông báo của
0 Góp ý
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận