Truyện Ma Ẩn Sĩ – Tác Giả Thái Sơ
Chương II: Quỷ Di Ái.
Từ khi ông tôi chuyển hẳn vào làng đã ba bốn năm trôi qua, mảnh đất Đồng Than bỏ hoang một hai năm thì rộ lên phong trào cắt đất sét làm gạch, cả cánh đồng cứ mỗi chiều đỏ rực ánh lửa. Rồi kháng chiến nổ ra, cả làng xơ xác, tiêu điều hẳn, thanh niên thì đi lính, làng chỉ còn người già và trẻ con, với số ít người đứng tuổi. Cuối năm 52, dân quân làng ở cái lò hoang Đồng Than phục kích được một toán linh Tây, giết được một thằng Việt gian. Dân làng phấn khởi lắm, nhưng vài ngày thì Pháp về, nó cáu quá đốt phá cả làng,từ cái Đình làng, đến chùa làng, đều bị đập hết, rồi đốt gần hết cả xóm Giáp. Từ đấy dân làng bỏ đi tứ xứ, mãi đến năm 54 mới về xây dựng lại.
Cụ Nhĩ bây giờ đã yếu lắm rồi, cụ cười móm mém rồi nhìn lại từng gốc cây, từng mái nhà trụi lủi., rồi cụ nhíu mày bước vội đến Đình làng. Cụ Nhĩ vội vã lật đống gỗ gạch còn sót lại của Đình lên, nhiều người lại hỏi cụ nhưng cụ chỉ lắc đầu không đáp mà chăm chú làm tiếp, mãi một lúc sau cụ thảng thốt nói lớn vọng ra:
– Cái triện đồng của Thành Hoàng đâu mất rồi! Hay là bị Tây mang đi mất rồi, thế thì hỏng!
– Cụ nói sao? Cái Triện giấu trong cột gỗ lim lâu lắm rồi không ai biết, mất rồi thì giờ tính làm sao hả cụ?
Mấy cụ cao niên khác nghe thế vẻ mặt cũng hốt lắm, không một ai hiểu lý do vì sao, rồi cụ An dè dặt hỏi. Cụ Nhĩ thì vẫn tư lự lắm, đăm chiêu một lúc thì mới thở dài đáp
.- Đâu khắc có đấy, các cụ cứ dựng tạm lại Đình làng ta, rồi ta tìm cách lo liệu sau!
Nói thế mọi người liền gật đầu, làng mình từ đấy bắt đầu xảy ra việc lạ. Cứ mỗi chiều từ núi sát ngay làng bay ra từng đàn chim lợn, cứ chập tối là từ ngọn tre ở hào làng kêu từng tiếng eng éc… eng éc… nghe đến giật mình. Bọn nó kêu rất lâu, tầm gần tiếng lại bay lại về núi, mỗi ngày như thế đâm ra dân làng sợ vẩn vơ hết. Từ lâu người ta đồn rằng chim lợn kêu là có người chết, đàng này nó cứ đứng ở hào làng kêu, mà không chỉ một con, mà là hai ba chục con một lần. Người làng ra xua đuổi đi thì chỉ được một vài phút, một vài phút sau thì lại về túm tụm lại ngọn tre rồi. Rồi cuối cùng không chỉ là chim lợn nữa, mà có người làng đã bị doa đến chếp khiếp.
Cứ tờ nờ sáng, là một túm đàn bà trong làng lại quẩy gánh, quảy hàng lên chợ huyện buốn bán, đặng kiếm vài xu về tăng gia thêm bữa cơm bữa cháo, chợ Huyện mở sáng, mà làng lại xa nên phải đi từ lúc canh ba chưa sáng rõ. Các bà đi qua cây tre, thân tre vang lên tiếng xào xạc ngày càng to, một bà mới thấy lạ hỏi lớn:
– Mấy bà có thấy lạ chửa? Rõ là không có gió mà lũy tre kêu như có bão ấy nhờ!
Mấy bà kia cũng gật gật, thì từ lúc này cây tre như đổ rạp ra giữa đường chắn nguyên đường, rồi một tiếng cười khé..khé… vang lên giữa đêm tối. Từ trong bụi tre bò ra bóng người bò ra, nó đen đúa dưới ánh trăng, cả người nát bươm như bị đá đè nát bét vậy, nó chỉ bò bằng hai tay mà nhanh như người đang chạy từng bước nhỏ. Lũy tre dài năm sáu chục mét, àm nó bò thoăn thoát như con thạch sùng, mới đấy đã đến gần đoàn người rồi, lúc này các bà mới nhìn rõ nó. Nó chỉ có phần thân trên của con người, dính với một cái chân cụt tới đùi, ổ bụng nát bét hết, vừa bò nó vừa cười, từ miệng phát tiếng cười ghê rợn, lưỡi dài quết đất, đỏ lòm. Các bà thấy thế sợ đến đờ người, may mà có một bà sợ quá tiểu cả ra, con vong thấy thế liền chần chừ không bò lại nữa, mà nhìn chăm chăm cả đoàn người. Lúc này cả đoàn mới sực tỉnh, vội rặn mỗi người một ít, rồi bôi khắp người, vứt hết gánh hàng chạy vê phía làng, vẫn nghe đàng sau tiếng thổi gió như tiếng con rắn lớn trườn vậy.
Nỗi sợ lớn dần, dân làng đành làm phiền cụ Nhĩ, cụ nghe thế liền đi ra chỗ hào tre. Cái hào tre này trồng từ lâu rồi, năm xưa mỗi làng đều là một đất riêng- nội bất xuất, ngoại bất nhập, cái hào tre trồng rắt một loại tre gai để làm thành hào thành lũy ngăn người ta ra vào. Cụ Nhĩ đến cạnh lũy tre, cụ bấm bấm đốt tay rồi mang cái La bàn ra, lẩm nhẩm vài câu. Lúc này kim La Bàn xoay tít vài vòng, các khớp răng của La Bàn, rồi dừng lại ở Khảm và Ly, lúc này cụ Nhĩ mới nhìn về phía mặt trời, rồi lẩm bẩm nói:
– Ly sính Hỏa, Khảm ưa Thủy, Nội Khảm ngoại Ly, vậy đây là quẻ Thủy Hỏa Vị Tế. Quẻ này theo Tả Ao tiên sinh giải chú thì là Chồn con qua sông, hấp tấp ướt đuôi- ắt hẳn là có tà vật mới luyện thành nhưng chưa dứt được âm khí, hơn nữa lũy tre làng mọc về phía Đông Nam làng! Đông Nam có cây lớn, cây ấy ắt dưỡng quỷ- cổ nhân nói không sai bao giờ.
Rồi cụ gọi người làng đang đứng đợi cạnh, nói lớn:
– Các chú các thím đào trốc gốc lũy tre này lên cho tôi, nhớ kỹ, nhà nào có trẻ con chưa được nửa giáp thì lùi về sau!
Tức thì người làng hè nhau đào lũy tre lên, đào sâu khoảng ba bốn mét thì thấy một bộ xương đen xỉn, chỉ có phần xương thân trên, không có xương chân phải. Cụ Nhĩ nhíu mày, liền nghĩ ngợi một chút, mới bảo tiếp:
-Các chú thím chịu khó đào về phía tay trái chú bảy mươi bước chân nữa cho tôi…
Mọi người nghe lời liền đào thêm một lúc, lúc này mới thấy dưới chân lũy tre là một ổ rắn, nhưng chỉ còn một lớp da lột, lớp da này dài dễ cả ba bốn mét, rộng hai gang tay. Cụ Nhĩ thấy thế mặt biến sắc lắm, bảo với dân làng:
– Tôi nghe nói trước làng ta có phục kích được cả tiểu đội Tây đi càn, giết được thằng Tây với thằng Việt gian phỏng? Vâng, đúng rồi cụ- một bác cầm cái mai nói vọng lên.
– Thế thì đúng rồi, thằng Tây chết lính Tây nó mang xác về rồi, còn xác này chắc là của thằng Việt gian, bọn Tây nó quẳng ở đây. Nó chết hận quá, vong nó lại quấy quá! Mà xác nó lại bị con rắn ăn mất, giờ ta phải tìm cho ra con rắn này, giết ngay nếu không để lâu tôi e có biến!
Nghe cụ nói thế người làng ai nấy mặt tái không còn giọt máu, nhất là mấy bà bị ma dọa hôm trước càng tỏ vẻ e sợ. Cụ Nhĩ trầm ngâm, rồi bảo dân làng xin chân hương ở Chùa với Đình làm mồi, sau đấy đốt luôn cái bộ xương đấy đi. Lúc đốt bộ xương, đàn chim lợn lại từ núi bay tới, kêu eng éc cả khoảng trời, mãi tới khi đốt xong cả đàn mới tản đi. Cụ Nhĩ chia phần tro thành bảy phần, bảo dân làng trôn lần lượt ở bảy nơi trong làng, cụ giải thích:
– Chia làm bảy, vì nó là đàn ông, có thất khiếu, tối lấy xương giả làm thất khiếu để tán cái Âm khí của nó ra. Mà tôi chôn đều ứng với các đỉnh của núi ta, lấy đỉnh núi làm thành hình kiếm, tựa thế Thái Sơn áp đỉnh mà từ từ làm nó yếu bớt đi.
Xong xuôi đâu đấy, cả dân làng giải tán, các cụ cao niên thì cùng nhau ra Đình bàn chuyện. Được quá nửa tuần rượu, thì có một chú hớt hải chạy đến báo:
– Không hay rồi cụ ơi, anh Định, anh Huy bị vong nghịch rồi cụ ơi..
Bác Định, bác Huy là một trong những người tham gia việc đào lũy hôm nay, nghe thế cụ Nhĩ cùng các cụ tức tốc chạy đến nhà hai bác. Lúc này sân đông nghẹt người, ai cũng lo lắng, vì nay mới làm được việc nhỏ, mà đã bị thế này, thử hỏi hôm sau còn nghiêm trọng thế nào nữa. Không biết thân mình còn giữ được mạng không.
Cụ Nhĩ chạy đến, tức thì thấy bác Huy, bác Định vị trói vào cột, mấy người khác thì vừa vẩy nước tiểu vừa lấy cành dâu vụt vào người hai bác, quật đến tóa cả máu mà mắt hai bác cứ long sòng sọc lên, lưỡi thì thụt ra thụt vào như lưỡi rắn, thở hơi ồ ồ, bụng thì to như bụng trống. Thấy cụ đến, bác Định gái mới mếu máo thưa:
– Chồng con xong việc làng, về đến nhà ăn uống xong, bảo đi đặt cái vó… Mãi không thấy về, con đi tìm thì thấy chồng con, bác Huy với bác Tiến ở lũy tre làng. Sợ quá con chạy về báo cho dân làng, từ lúc ấy chồng con đã thế này rồi cụ ạ. Mong cụ giúp chồng con, không ông ấy chết mất…
– Chú Tiến đâu…Cụ Nhĩ thấy không ổn liền quay sang hỏi gấp.
Dân làng lúc ấy mới sực tỉnh, một cụ cao niên mới giật mình:
– Thằng Tiến nó gọi mình mà chú… Thôi chết!!! Nó bị vong nghịch như thăng Định, thằng Huy cơ mà….
Rồi cụ Nhĩ mới móc trong túi một viên thuốc, bảo với bác Định gái:
– Thím hòa viên này với nước tiểu trẻ em cho chú uống, rồi lấy tiết gà trống đánh gió cho chú ấy! Nhớ kỹ là gọi người túc trực cạnh chú nhà, rồi rải vôi trước sân, cửa, vẽ thành hình cung tên! Với đốt nhanh cho các cụ, nội tối nay không được để hương tắt, tôi phải ra Đình gấp, thím thông cảm…
Rồi cụ với mấy chục người khác ra đình, chạy vào sân Đình, các cụ sững người: Đình làng tan hoang như vừa có một cơn bão quét qua, lư hương, ban bệ lung tung lộn xộn, bàn ghế xiêu vẹo, nhất là cái Vạc hóa hương của Đình lăn ra tận sân, cụ Nhĩ thấy thế kinh hãi lắm. Cụ chạy lại chỗ cái Vạc, nói lớn:
– Chết rồi, phần tro cốt của thằng Việt gian mất rồi. Tôi ếm trong này…
– Thằng Tiến nó dám..
Cụ Nhĩ bấy giờ đã bình tĩnh, cụ lặng lẽ lắc đầu:
– Không phải thằng tiến, mà là thằng Việt gian kia. Thứ ta thấy chỉ là thân xác thằng Tiến thôi… Tôi chủ quan quá. Đáng lẽ tôi phải nghĩ ra ngay từ lúc đào được cả xương thằng Việt gian, kèm theo là da của con rắn…
– Xin cụ giải thích cho chúng tôi đôi điều.. Mấy cụ cao niên nghe thế giật mình lắm, các cụ xưa nay chỉ nghe về ma Thần Vòng, ma Da,… chứ có nghe ma nào mà lừa được cả người đâu. Họa may chỉ có yêu tinh!
– Tôi chắc bảy phần, con này thành Quỷ Di Ái rồi! Quỷ Di Ái là cách gọi của phái chúng tôi, nguồn gốc nó như sau. Năm xưa thời Trần, Trần Di Ái là vương thất, Thái Tông cho đi sứ Tàu, ấy thế mà phản chúa cầu vinh, rước voi về giày mả tổ, cùng với quân Nguyên sang xâm lược nước ta, sau bị Hưng Đạo Vương giết ở Lạng Sơn, vùi thây nơi rùng rú, nhưng chết mà oán khí không tan, lại bị sơn cẩu dã thú ăn thịt. Chúng nó ăn thịt oán khí này, thành nghiện, liền tích tụ Âm khí của hắn, sau đấy bị vong của hắn phụ thể vào, từ sinh linh còn sống hóa thành quỷ vật. Thế nên con rắn kia tôi phỏng nghĩ là ăn thịt thằng Việt gian, bị vong nó phụ thể rồi, hóa thành quỷ Di Ái, không biết cớ làm sao chú Tiến lại cũng bị thế… Mà do tôi chủ quan trong Đình không ma quỷ nào vào được nên thành ra hắn đắc thủ…
Mấy cụ cao niên nghe thế sợ hãi ra mặt, quay sang nhìn nhau. Yên lặng một lúc thì một cụ mới ngỏ lời:
– Giờ mọi chuyện chỉ trông mong hết vào cụ… Chúng tôi thì vô phương thật rồi… Cần gì cụ cứ nói!
– Hôm nay mùng ba tháng năm, đến mùng năm âm, vào hôm Đoan Ngọ tôi sẽ cố một lần, dĩ dật đãi lao- ta cứ nghỉ ngơi an nhàn trước, tránh hao tổn lực lượng. Làm một lần, tiêu diệt gọn, thà mệt một lần chứ không để nó quấy quá nữa!
– Mọi chuyện nghe cụ..
Thế là mọi chuyên trong làng tạm lắng xuống, trừ chuyện bác Tiến từ hôm ấy mất tăm tích, những đàn chim lợn không còn xuất hiện nữa, giống như thời điểm bình yên trước cơn bão lớn. Đúng tiết Đoan Ngọ, sáng sớm, mọi người đã tập hợp ở sân Đình, thì cụ Nhĩ mới nói to:
– Giờ việc khẩn tôi không dài dòng, giờ làng cần chín trai đinh còn tân, tuổi Dần tuổi Thân! Bảy đứa con gái tuổi Tỵ, tuổi Mão. Ai gan lớn thì bước ra lo việc làng! Tôi thay mặc dân làng cảm ơn trước!
Tức thì có mấy thanh niên bước ra, cụ Nhĩ cười mỉm rồi quay sang nói với mấy cụ cao tuổi:
– Các cụ ở lại cứ làm theo lời tôi nhờ hôm trước, nghe bất cứ tiếng gì cũng không được mở cửa Đình, kể cả là tiếng tôi! Còn nữa, các cụ nếu thấy hương khói ở Đình tự nhiên bùng cháy, thì phải lấy ngay chiếu biểu sắc phong của Đức Thành Hoàng ra ngay… Tôi nghĩ là con Quỷ Di Ái nó sẽ về lại chỗ nó chết, để ép cái xác rắn lột xác lần nữa, cũng thuận tiện lợi dụng đất Đồng Than mà mạnh thêm…
Rồi cụ cắt đặt các bà mua về gà trống, chó mực, mèo đen, máu dê,… rồi cụ đưa cho mỗi thanh niên một túi vải nói.
– Chút nữa cứ an vj theo lời tôi, các anh chị mỗi người một túi Càn Khôn này, bày trận xong ngồi xếp bằng, nhắm mắt lại, nam tay trái cầm, nữ tay phải cầm! Dù thế nào cũng không được nhúc nhích một bước, cứ an tâm là không có gì gây nguy các anh chị hết! Lúc nào nghe tiếng gà gáy thì hãy mở mắt!
Rồi chiều tối hôm đó, cụ cùng đoàn thanh niên ra ngoài lũy tre làng đến cái lò gạch bỏ hoang, cụ xếp bảy cô gái về phía Bắc cái lò gạch, còn chín thanh niên nam về phía Nam, sau đấy cụ lấy tiết gà hắt về phía Đông, lấy máu chó rải một vòng quanh người các người kết trận kia. Xong xuôi đâu đấy, cụ bắt lấy con mèo, thả nó ở cạnh cái lò gạch, lúc này con mèo mới lò dò đi lại cái lò gạch. Bỗng nhiên bước chân nó run rẩy, rồi kêu thảm mấy tiếng, cúi xuống ngang bụng tự cắn ngang ổ bụng, lôi ruột ra rồi chết. Mất thanh niên đi cùng cụ Nhĩ thấy cảnh tượng kỳ dị thế tái mặt ngay! Cụ Nhĩ mới vung nắm đậu lên, hét lớn:
– Thái Vi pháp lệnh, Tát Đậu thành Binh! Nội Ly hành Hỏa, Ngoại Khảm hành Thủy. Bắc Minh kết trận Thất Sát chi âm trận, khai khai khai!! Nam Hoang kết Cửu Dương chi trận, khai khai khai!!! Nội Dương Ngoại Âm, Kinh Dịch chi lục thập tam trận- Thủy Hỏa Ký Tế, phược phược phược!!
Sau khi cụ niệm chú, từ vòng huyết cho của bảy cô gái ngoài cùng, bảy chiếc túi Càn Khôn dâng lên ánh sáng màu lam nhạt, bay về phía đoàn Đậu Binh, tức thì ánh sáng đậu binh sáng bừng lên. Còn từ vòng càn khôn của chín anh thanh niên thì làm ánh sáng cam nhạt, thoát cái bay về phía La Bàn của cụ. Từ trong cái kì gạch cũ vụt ra một bóng đen, lao thẳng vào đám đậu binh. Từ ánh sáng mờ ảo, cụ Nhĩ nhận ra đây là một con rắn lớn, nhưng ánh mắt của nó không phải màu vàng khé, mà là chia rõ đồng tử đen trắng như mắt người, nó vừa cắn xé vừa phun ra những thứ bầy nhầy về phía cụ, cụ Nhĩ liền vung La Bàn lên dạt hết ra. Tức thì nghe tiêng nói vang lên, tiếng nói như tiếng người ta bị bóp họng, kêu khè khè:
– Phá tao… lũ ngu dân phải chết… giết mày xong…tao giết hết….
Cụ Nhĩ liền nhíu mày, tiếp tục niệm chú, tức thì ánh sáng từ trận pháp kết từ các thanh niên trong làng càng mạnh, nó sáng đến chói mắt khiến con Quỷ phải hét lên đau đớn. Rồi tự nhiên nó rít lên một tiếng rít gió như muốn đục thủng màng nhĩ người ta, tức khắc từ trong lò gạch chạy ra một bóng người, là bác Tiến. Nhưng lúc này thì bác không còn bình thường nữa, cụ Nhĩ trông thấy cũng giật mình, người bác giống như mọc vảy, hai mắt vàng quạnh lại, đồng tử thu nhỏ thành một vạch ngang mắt. Bác chạy bốn chi như con thú, lao vào giữa đám Đậu binh, nhưng kỳ lạ là tứ chi bác khép vào người chỉ chừa ra một chút, mỗi lần lao vào người bác lại như bị chém nhẹ vài phát, máu ứa ra nhỏ tong tong xuống đất.
Cụ Nhĩ thấy thế một mặt bấm quyết cho đám Đậu binh chống cự con rắn cùng bác Tiến, một mặt xếp bằng hai tay đặt thế niêm hoa, từ từ nâng chiếc La Bàn lên, rồi cụ mở bừng mắt ra, tung mạnh chiếc La Bàn về phía con rắn, hét lớn:
– Đoan Ngọ chi dạ, Khuất Nguyên chi hiền nhân anh linh. Nay kẻ này khi chết tham sống phản quốc, khi chết thành quỷ tạo nghiệt. Nay kính xin Ngài cho ta mượn dùng một ít Chân Dương chi khí tiễu trừ yêu nghiệt, há để nó làm càn!!
Oành… một tiếng vang như nổ pháo vang lên, con rắn va với chiếc là bàn sáng như ngọn đèn và vào nhau tạo thành một vụ nổ đẩy cụ Nhĩ cùng đám Đậu Binh ra xa ba bốn mét. Lúc này con rắn người gần như nát bét, máu chảy đỏ quạnh, nó liền lao về phía bác Tiến, cụ Nhĩ biết nó định làm gấp việc phụ thể với bác, nên cụ nén đau vơ hết đám Đậu binh lại, nhân lúc nó không để ý nhét thẳng vào mồm nó. Cuối cùng phát lên một tiếng nổ bùng bục, cái đầu rắn nát bét!!! Cụ Nhĩ cùng bác Tiến bị bắn ra xa, đến lúc này thì đám gà trống được cụ mang theo nhất thời gáy to lên. Mấy người thanh niên nghe đàn gà gáy liền mở choàng mắt ra, mang cụ Nhĩ cùng bác Tiến về trong làng.
Hôm sau, cụ kể lại rằng: Cụ cần thanh niên nam nữ để kết quẻ Thủy Hỏa Ký Tế, nguyên lai là quẻ trước của quẻ Thủy Hỏa Vị Tế khi còn quỷ Di Ái chết đi, là khắc nhau. Quẻ Vị Tế là giả vờ kết thúc, nhưng mà chưa xong, ý nói âm khí mạnh mẽ tưởng chết nhưng vẫn sống, tức là thành vong thành quỷ. Cụ bắt quẻ Ký Tế thì là chết hẳn, vạn đời không được siêu sinh nữa. Còn con quỷ hóa thành quỷ Di Ái ấy cụ tìm mãi không được cái triện đồng của Thành Hoàng, e rằng không phải nó lấy đi, nhưng vì nó ở trong hào làng đã lâu, nên dính khí tức của làng, Thành Hoàng không phân biệt được, nên nó lấy được tro cốt mang đi. Về phần tro cốt là dùng để hoán xác với bác Tiến, nếu hoàn thành, bác Tiến sẽ hóa xà tinh, còn nó có thân xác thịt, có dương khí của bác, nhưng mọi chuyện chưa thành thì đã bị diệt trừ. Còn về bác Tiến là do bác trong lúc đào xác nó thấy có con dao dù của Pháp nên bác cầm về, ai ngờ dính phép của con quỷ. Từ sau lần đấy bác bị câm không nói được, nghe nói do lưỡi bị thụt vào, sức khỏe cũng giảm dần, vài năm sau bác mất.
Lại nói ngày Đoan Ngọ là để tưởng niệm Khuất Nguyên- thân là kẻ sĩ yêu nước, sau trầm mình tự tử ở Mịch La, chết thành tiên. Là người thương dân, hay tiễu trừ ma quỷ, hận kẻ bán nước cầu vinh, nên nhàm ngày Đoan Ngọ để mượn dùng linh lực của người này!
Cuối cùng, thì kẻ bán nước cầu vinh không có kết gì tốt, sống bị phỉ nhổ, chết không siêu sinh được, nhớ kỹ nhớ kỹ~~~