_________
Làng này vốn nhiều chuyện kỳ dị, nhưng có lẽ không phải không có nguyên nhân. Câu chuyện mà ai cũng truyền tai nhau nhiều nhất là Thành hoàng làng này, hay là người đến đây lập làng đầu tiên.
Khoảng gần 30 năm trước, có một nhà họ Nguyên ở ngoại ô của vùng Thành Bắc, cũng được gọi là sang. Nhiều người thường nghĩ phải ở Thành Nội thì mới là nhà hào phú. Nhưng này nhé, họ có đất đặt hàng buôn, nhà này có đồng cò bay thẳng cánh. Họ có kẻ hầu người hạ, nhà này có cả tá nông phu. Họ có của để cho hậu bối, nhà này chỉ cần nhắm mắt thì bạc đến không đếm xuể.
Dòng họ này vốn trước đây chẳng biết giàu hay nghèo, bần hàn hay phú quý. Nhưng đời trước thì đúng là cực. Nếu gán vài từ khinh miệt, có lẽ bây giờ họ sẽ gọi là loại vô lại, âm binh hồn thần.
Trưởng tộc nhà này chẳng có nghề ngỗng gì, suốt đời chỉ biết làm công cho người ta, ai gọi gì thì làm nấy, miễn sao no cái bụng là được. Cuộc sống ấy không khiến gã khá hơn, nhưng nhờ suốt ngày lao động chân tay, gã lại có cái sức khỏe hơn người. Cày ruộng nhưng thiếu trâu? Chẳng lo vì cứ đóng cày vào vai gã, chẳng mấy chốc ruộng đã xới. Có xe nhưng thiếu ngựa? Chỉ cần gọi gã, ngựa còn kém xa.
Với sức khỏe ấy, chẳng mấy chốc gã nổi tiếng trong làng. Mọi việc cần dùng sức, không có gã thì chẳng xong. Mấy lần quan binh đến nhà đòi tòng quân, mấy hào lý trưởng cứ phải ra sức xu nịnh, đút lót mới hòng giữ gã lại được. Họ chẳng sợ thiếu người, nhưng làm tốt mà chỉ cần tiền công nhỏ mọn, chỉ có mỗi mình gã. Ấy là họ nghĩ đến cái lâu, cái dài. Chứ nếu có ai đó ngang sức, họ chẳng đuổi gã đi mau. Vậy tại sao họ lại không ưa gã đến vậy?
Số là gã có tật xấu là bao nhiêu tiền cứ đổ vào rượu, đến nỗi nhà không có một cái bát cho ra hồn, nhưng vò rượu lúc nào cũng phải đầy ắp. Đi làm về mệt, gã vốc tay một ngụm rượu, uống cạn, “khà” một tiếng, thế là lại khỏe. Mà hiềm nỗi vốc tay gã to như cái gàu nước, một vốc rượu thoạt nghe thì nhỏ, nhưng đến gần mà ngửi, chắc hẳn mùi rượu cũng đã khiến ai bước qua cũng say.
Và gã say thật. Mỗi lần say, gã lại chửi bới cả xóm làng. Không vừa mắt ai, chưa có rượu, gã nín thinh cho qua. Rượu vào, gã vác cả cuốc đứng trước cổng nhà họ mà chửi. Chửi mãi không thấy ai, gã lôi cả dòng tộc họ ra mà giày xéo. Tuy bụng căm lắm, nhưng chẳng ai dám bước ra. Ra sao được? Họ đã từng thấy gã tay trần hạ cả con trâu mộng từ ngược chạy về miền xuôi, húc chết mấy mạng mà quan binh không làm gì được, phải nhờ gã ra tay. Giờ có thêm cây cuốc, bước ra chẳng khác nào nai dâng đầu vào miệng cọp.
Nhưng cái kiểu phá sức ấy chẳng giữ được lâu. Gã cứ làm rồi uống, đến một ngày rượu nhập vào thân, đau bệnh nằm một chỗ, rượu chẳng còn mà sức cũng không nâng nổi một cánh tay. Quan binh tới bắt lính, hào lý trưởng cũng chẳng thèm đả động, vì gã còn mang lợi gì cho họ nữa. Nhưng đến nhà, thấy gã vạ vật như vậy, quan binh cũng nản mà thoái lui.
Gã cứ nằm chờ chết như vậy, may mà có người thương tình, lâu lâu lại cho bát cháo cầm hơi. Nhưng ăn chẳng được bao nhiêu, còn lại cứ để trong bát đến khô cứng cả lại. Người ta thấy vậy cũng để mặc gã.
Một ngày, mưa đến gây lụt cả một vùng. Nhà gã vốn ở chỗ cao, nước chẳng vào đến sân, nhưng khốn nạn thay, chỗ gã nằm lại bị dột. Nước mưa cứ rỉ rả thấm qua, dần dần tạo thành lỗ to, nước ào ào trút xuống ngay cạnh chỗ gã nằm. Nước to đến nỗi cuốn văng cả bát cháo khô của gã lăn hẳn xuống ao trước nhà.
Nói về cái ao, nó là một minh chứng cho sức khỏe của gã. Vốn trước đây trong làng chẳng có cái ao nào, không ai nuôi cá cả. Muốn có cá ăn, họ thường ra sông mà bắt, hoặc đến chợ cho bọn con buôn hành hạ. Thấy chướng mắt, gã ngày ngày cuốc đất, đào ao, rồi lại dẫn nước từ sông vào. Lấp lại, thế là cái ao hình thành.
Các cụ trong làng có khuyên ngăn gã không làm vậy, vì con sông ấy vốn nằm lộ tử, nhà gã lại có mệnh dương. Dẫn tử nhập vào dương, ắt xảy ra chuyện kì dị. Nhưng gã nào nghe, muốn thì cứ làm, ai cản nổi? Đến khi cái ao thành hình, gã cho cá bột vào. Trắm, chép, trê, quả đủ cả.
Nhưng lạ nỗi, thả cá vào chẳng thấy sinh sôi, cứ như bị ai bắt mất. Gã lại thả, nhưng đêm cá còn nhảy tí tách, đến sáng chẳng còn một cái đuôi. Dân làng dèm pha, gã bỏ qua, rồi mặc cái ao ấy không thèm đả động đến.
Lại nói về bát cháo, sau khi lăn xuống ao, gã nghe tiếng “chách” rõ to. Hẳn là có con cá lớn nào đấy vừa đớp. Gã chẹp miệng, thầm rủa lúc đói chẳng có gì ăn, lúc gần chết thấy ngay trước mắt mà chẳng với tới được. Gã đành than trời rằng :
“Ông trời có mắt, cho con được qua kiếp nạn này, con xin thề thuận theo ông!”
Thế nhưng trời cao không có mắt, gã lại vừa lạnh vừa đói, cái chết cầm chắc trong tay. Thế là gã lại rủa, rồi lại xin:
“Trời không cứu ta, vậy thì đến quỷ cũng bỏ ta sao?”.
Nói đến đây, dương khí của gã gần tuyệt, mê man đi lúc nào chẳng hay, lúc tỉnh, lúc mơ màng, hồi lâu lại chẳng còn phân biệt thực hay mơ. Trong cơn mê sảng, gã thấy từ ao có hai đốm sáng, rõ là từ dưới ao. Hai đốm sáng ấy nhìn xa thì nhỏ, nhưng nếu ước cũng to ngang quả dừa. Hai đốm sáng ấy từ từ vươn lên khỏi mặt ao. Gã thất kinh nhận ra đó là đôi mắt của con vật nào đó. Đốm sáng ấy cứ từ từ tiến lại gần, bò đến sân. Thình lình sấm chớp giật qua, hiện rõ hình con Giải khổng lồ, đen nhẻm đang tiến tới. Gã rú lên kinh hãi rồi ngất lịm đi, không biết gì nữa.
Đến nửa đêm, bỗng dưng gã tỉnh dậy, thấy mình tràn đầy sức lực, khác với vẻ hom hem bệnh tật trước đó. Nói không ngoa, gã cảm thấy mình còn khỏe hơn lúc trước. Định mở miệng cảm ơn trời phật, gã chợt lạnh sống lưng khi nhớ lại con Giải. Gã quay lại nhìn ra sau, tối đen như mực, chẳng biết con giải đang ở đâu. Thế là gã vội chạy lại, đóng chặt lại hai cánh cửa thường vẫn mở toang. Khép được cửa lại, gã vội chạy xuống mà nấp dưới gầm thờ. Bên ngoài, phát ra những tiếng lục cục kì dị. Gã nín thở nhận ra đó là tiếng con Giải đang thả bùn. Nhưng nhìn ra, vẫn tối đen như vậy, con Giải chẳng biết ở đâu, nhưng tiếng lục cục ấy mỗi lúc một to.
Tầm một canh giờ trôi qua, không còn nghe tiếng lục cục ấy nữa, gã vẫn tiếp tục nằm chờ. Thêm nửa canh tiếp theo, gã mới lấy lại dũng khí mà bò ra nhìn hé qua lỗ cửa. Vẫn chẳng có gì. Rồi lại nghe thấy tiếng chớp nổ đanh gọn, ánh sáng lọt qua cả những lỗ trên mái, sáng choang một góc.
Thầm nghĩ con Giải ấy đã đi, gã định hé mở chút cửa để xem, rồi lựa thời mà báo xóm làng. Tuy ghét họ bỏ mặc gã, nhưng tính gã vẫn khí khái như vậy, không nề hà chuyện giúp kẻ khác. Nhưng lúc định mở cừa, gã nhận ra mùi tanh quái dị bao trùm cả nhà. Cái mùi tanh ấy gã đã nhận ra lúc đầu nhưng không để ý đến vì hình ảnh con Giải vẫn còn ám ảnh. Chột dạ, gã lại nhớ lúc sấm chớp đánh xuống, nhà thì sáng một góc, nhưng ngoài cửa vẫn tối om.
Bất chợt tiếng lục cục lại phát ra, rõ mồn một như bên tai. Chớp đánh ầm một cái. Lúc này gã bủn rủn, tay chân không cử động nổi. Ngoài cửa, cái đuôi con giải thòng xuống, lắc qua lại như con rắn to, đung đưa phía trước.
“Nó ở trên mái!”
Gã thầm nhủ rồi ngước đầu lên trên.
Người bình thường thấy cảnh ấy chắc kinh hãi đến vỡ tim mà chết, còn gã không hiểu sao vẫn còn sống. Trên mái, con Giải đã đục hẳn một lỗ to, nó chui đầu xuống. Cái đầu gớm ghiếc gắn với cổ dài kinh dị đong đưa, nhả những bãi nhớt xuống gần chỗ gã nằm. Gã nín thở ngồi xuống, lết lại vào gầm bàn thờ.
Cái đầu tiếp tục nhả nhớt xuống. Rồi nhận ra không có ai ở dưới, cổ nó quay xung quanh, đưa cái đầu đi lùng sục khắp nhà. Quang cảnh tựa hồ con rắn đang rúc đầu vào lồng chuột. Nó cứ lùng sục mãi, rồi tiến đến chỗ gã đang trốn.
Gã quơ tay trong bóng đêm, vô tình vớ được cây cuốc vứt lăn lốc trên nền nhà, liền cầm lấy thủ thế. Con Giải vẫn từ từ tiến lại. Khi nó đến cách chỗ gã vài phân, gã liền hét lớn rồi lao ra, vung cuốc đánh thẳng vào đầu nó. Con Giải rú lên vài tiếng rít rít ghê rợn rồi rút đầu lại, nó lăn xuống phía trước sân rồi bò tới, húc mạnh vào cửa làm nó vỡ toang. Nó xộc vào nhà nhưng gã đã nhanh chân đạp vào mai nó mà thoát ra.
Gã cứ chạy mải miết, quên cả việc báo cho dân làng. Đến vùng trũng, gã lội qua rồi bị nước lũ cuốn đi. Đến khi tỉnh lại, mới thấy mình đã dạt đến gần cuối làng.
Lúc này, vài nhóm người đang vây lấy gã, họ cứ tưởng gã đã chết đuối, thấy gã đứng dậy, họ kinh hãi mà chạy ra xa. Vài người nhận ra gã còn sống liền bạo gan tiến lại. Nhưng họ đều có nét mặt kinh hãi.
Số là khi trời sáng, con nước đã trôi đi, dân làng gọi nhau ra tìm lại đồ đạc bị mất. Họ nghĩ gã cũng đã chết trong cơn đói lạnh nên kéo đến nhà gã hòng chia chác chút đồ còn lại, hoặc chí ít là cắm cọc cướp đất hương hỏa.
Nhưng khi đến gần vùng cao, họ đã kinh hoàng khi thấy trâu bò mỗi thứ chỉ còn một nửa, cứ như chúng bị đá núi nghiến qua. Ba căn nhà sống gần gã với hơn mười chín khẩu còn thê thảm hơn, chẳng ai toàn thây. Họ đều bị cắn đứt phần thân trước, chỉ còn phần thân sau nhầy nhụa trong máu và ruột. Duy chỉ có một người phụ nữ đang mang bầu hơn tám tháng là còn giữ được chút xác, chỉ có phần từ bả vai đến sườn trái bị cắn đứt nham nhở, nằm chết gục tại bẹ chuối cạnh nhà. Trên khuôn mặt người này, ai cũng thấy sự kinh hãi chiếm trọn, cứ như người này thấy gì đó ghê tởm lắm.
Biết vì chọc giận con Giải mà xảy ra cớ sự trên, gã chẳng dám nói gì. Lấy cớ vùng đất đó giờ có vong, gã lẳng lặng dựng một cái chòi ngoài đồng mà ở tạm.
Nhưng miệng đời nào tha cho gã, tuy không biết vì về chuyện con Giải, nhưng gã từ người sắp chết lại khỏe mạnh, thêm nữa lại là người duy nhất còn sống, họ cho là gã đã dùng bùa phép hại chết ba nhà kia để cải tử hồi vong. Chuyện đến tai hào lý, chúng cho là phải, liền sai hạ bộ đến bắt gã chịu tội. Biết nếu nói ra cũng chết, mà không nói cũng khó toàn mạng, gã liều mình chống trả làm đám hạ bộ kia đứa vong mạng, đứa bươu đầu.
“Đã lấy mạng người, kiểu gì cũng chết!”
Nghĩ vậy gã liền về nhà, dự chết ở đây còn hội vong được với thân thích. Thế là đám hào lý lại hô hào dân chúng vây lấy nhà gã. Chúng tuy đông nhưng hèn, không đứa nào dám xông vào, chỉ đứng ngoài nghênh giọng chiêu hàng, nhưng gã chẳng nghe. Chúng lấy củi rơm định đốt nhà, nhưng mưa mấy ngày, củi rơm ướt cả. Thế là chúng chạy vạy đi nhờ quan Tây.
Quan Tây vốn được chúng đút lót, nay nghe có kẻ dám làm loạn đụng đến thuộc hạ mình thì căm lắm, thế là sai một đám lính mũi lõ vác súng đến làng bắt gã. Chúng đi cả ngày, đến đêm thì tới nơi. Lúc này dân chúng thấy lính Tây đến, sợ hãi chẳng dám ra, chỉ có đám lính đến vây nhà gã. Chúng bắn một loạt đạn, viên đạn găm cả vào nhà, may mà gã không bị gì.
Lúc chúng định lao vào, bất ngờ từ dưới ao, cái mai khổng lồ của con Giải trời lên, nó vươn cổ táp sạch bọn lính rồi lôi xuống ao. Cả đám chết sạch. Việc ấy chỉ có gã thấy, chẳng có ai biết. Cả đêm, gã cầm cuốc thủ thế sợ con giải lao vào. Nhưng có vẻ đã no nê, con Giải chẳng đả động gì. Gần sáng, nó phun vài cái sọ người ra lăn lông lốc trên sân.
Tin tức gã giết lính, vứt đầu thị chúng được báo lên quan Tây, cho là một người chẳng làm được chuyện ấy. Lại nghĩ đám dân làng đã theo bọn nông dân khởi nghĩa đang làm loạn khắp nơi, nay lừa lọc để hại lính mình, Tây kéo quân đến nã pháo, giết sạch cả làng.
Còn về phần gã, trong lúc chạy đạn pháo bay xuống đầu, gặp được một nhóm nông dân khởi nghĩa đang thủ chiến gần đó, thế là được chiêu mộ, đưa lên vùng núi cao mà lẩn trốn. Nhưng thoát được một nạn, chẳng thoát được nạn kế. Do là người từng ở làng, biết địa hình, gã được phó soái trưng dụng mà đưa nghĩa quân đến đánh giặc Tây nay đồn trú tại làng.
Nhận được lệnh phải về lại làng, gã đành nói rõ mọi cho nhóm lãnh đạo nghĩa quân nghe. Tuy vậy, họ cho là gã hèn, kiếm cớ để thoái lui, duy chỉ có viên phó soái là tin gã. Người này nói:
“Tôi tin anh, nhưng lần này về, ngoài giết giặc Tây còn trừ họa cho dân, chẳng phải một công đôi việc sao?”
Gã cho là phải, liền thuận theo, nhưng dặn người này không được tới ao nhà gã. Người này đồng ý, dẫn đoàn nghĩa quân đi theo gã về làng. Khi gần đến nơi, họ cho một nhóm nhỏ vào thị sát nhưng nhóm này không trở về, nghĩ là giặc đã bắt được họ, phó soái liền cùng gã vào trong để xem tình hình, đồng thời tìm cách giải cứu họ.
Khi vào bên trong, chẳng thấy giặc đâu, nhóm thị sát cũng mất dạng. Cho là chuyện chẳng lành, gã liền nói người phó soái trở ra, nhưng người này không nghe mà bảo:
“Tôi có người đi theo là vì chữ trung, chữ nghĩa. Nay bỏ mặc mà đi, chẳng phải mất cái nghĩa sao? Vậy còn đi làm việc nghĩa để làm gì?”
Biết chẳng lay chuyển được, gã đành phải dẫn người này đến ao nhà mình. Tới nơi, chẳng ai dọa mà cả hai đã bay mất vía. Giữa sân, con Giải to như gốc thụ cổ đang nằm dài, xung quanh nó là hàng chục đầu người cả Tây lẫn Ta vứt long lóc, la liệt. Do trời đang giữa trưa, con Giải có lẽ vừa no nê nên nằm chẳng chút cử động.
Phó soái cùng gã lén lại gần, người này vung đao, chém mạnh vào cổ con Giải. Nhát đao mạnh đến nỗi con giải không kịp tránh, phải chịu một nhát sâu vào cổ. Nhưng nó chưa chết, nó vùng lên định táp người này nhưng gã lao đến, đạp mạnh vào thanh đao còn cắm trên cổ nó. Con Giải đau đớn phì ra một đống nhớt cùng máu trộn lẫn, ngập cả một khoảng sân. Nó quay mình làm người phó soái bị gai quanh mai nó cắt một nhát sâu, máu phun xối xả.
Gã lại đạp mạnh thêm vài phát nữa, thanh đao ngấn vào sâu, chặt đứt đầu con Giải ra. Từ trong cái cổ đã đứt của nó, một làn sương đen bốc ra, tỏa đi kèm những tiếng rít ghê rợn. Cả cái xác và đầu nó bỗng co lại, cuối cùng chỉ còn lại cái xác to bằng con vích biển.
Người phó soái lúc này chỉ còn thoi thóp, mạng sống chỉ tính bằng khắc. Do không thể để người này lại đây, gã liền kéo ra, vô tình dính phải nhớt của con Giải phun ra lúc nãy. Vết thương của người này tự nhiên khép lại, người này dần tỉnh. Biết chất nhớt đó là vị thuốc, gã lấy bôi vào vết thương người này, lại cho uống máu con Giải. Thế là người này không những toàn mạng mà cơ thể lại còn tráng kiện.
Khi khỏe lại, người này bỗng quỳ lạy gã rồi thốt lên:
“Ơn cứu mạng, tôi xin dùng thân này đền đáp! Nhưng vì tôi mà anh mất nghĩa, tôi không thể giúp được!”
Gã thấy lạ, liền gặng hỏi, người này mới giải nghĩa:
“Khi anh gần quy tiên, chẳng phải con giải này đã xuất hiện? Nếu nó muốn hại anh thì đã xông vào, chứ chẳng phải tốn công leo lên mái! Nếu nó không phải đã cứu anh thì còn thứ gì nữa?”
Gã nghe xong, cảm thấy xúc động đến tột độ. Đúng là con giải tuy có dữ dằn nhưng chẳng có ý làm hại gã, cái thứ nhớt ấy nó còn nhả gần chỗ gã nằm, chắc là muốn cứu gã lúc sắp lâm chung. Mà thật, trước giờ tuy nó xuất hiện kỳ dị, nhưng đã hại gã lần nào đâu?
Cảm thấy mình đã mang tội, gã tiến gần xác con Giải mà nâng nó lên, nhận ra trong bụng nó có gì đang quẫy đạp liền mổ ra xem. Từ trong vết cắt đó, một đàn Giải con, mai là những sọ người trắng hếu túa ra, ào ào chạy vào cái ao.
Sau việc trên, người phó soái và gã trở về bản doanh, mang theo đầu con Giải về mà báo. Ai cũng không tin, cho là bịa. Nhưng người phó soái đứng ra làm chứng, rồi chặt đầu một con gà chỉ còn chút da. Bôi chất nhớt của con Giải vào, con gà chạy như chẳng có chuyện gì. Lúc này họ mới tin.
Nhưng họ đòi ăn thịt con giải vì cho rằng nó là tiên dược, gã và người phó soái ngăn không được, cho đó là chuyện bất nhân nghĩa, cả hai bỏ đi, mang theo cả đầu con giải.
Khi đi đến một làng nọ, trai tráng đã đi chiến trận, đàn bà chỉ còn lại vài người do giặc Tây đã bắt đi phục dịch gần hết, hai người quyết định ở lại đây sinh sống. Gã lấy một quả phụ chưa con ở đó, sinh ra hai người con trai nhưng đều chết non. Họ cố gắng sinh thêm nhưng thai không thụ được, mãi cho đến gần bốn năm, gã mới mộng thấy một chuyện.
Trong mộng, một người phụ nữ gặp gã, trên cổ còn hằn một vết đứt đỏ. Người này giận dữ, chỉ thẳng mặt gã mà rằng:
“Tôi không có oán với ông, tại sao ông lại hại tôi, để con tôi mất mẫu tử?”
Biết người này là hồn con Giải báo mộng, gã đáp:
“Bà có ơn với tôi, nhưng lại hại người làng tôi, việc này có đáng để tôi mất nghĩa không?”
Người này càng giận dữ hơn, dậm mạnh chân xuống đất mà mắng:
“Thật là giống vô ơn! Những kẻ đó trong đêm muốn hại ngươi, ta đành giết sạch! Lũ lính kia, chúng muốn lấy mạng ngươi, ta cũng phải ra tay cứu! Đến lũ mà ngươi xem là anh em lại muốn hàng, cấu kết với giặc, ta cho chúng yên mồ cạnh nhau! Vậy là ta có ơn, hay có oán với ngươi?”
Nghe xong, gã biết mình đã sai, liền dập đầu mà tạ:
“Tôi thực không biết! Xin bà muốn làm gì cứ làm, chỉ xin để vợ tôi được sống!”
Nhưng người này gạt lệ đang ngấn ra, đỡ gã dậy mà nói:
“Vì ơn của ngươi, trong cơn lũ đói khát đã cho ta một bát cháo khô mà ta được sống, mạng này có trả cũng không báo đáp được! Ta cũng đã lấy đi sinh mạng của hai con ngươi, âu cũng là quá nặng. Nay ân oán coi như đã trả đủ, hãy đứng lên mà nghe lời ta dặn!”
Gã đứng dậy tiếp lời:
“Xin bà chỉ bảo, tôi xin thuận theo!”
“Ta vốn là con Giải sống ở lộ tử, nhờ thụ khí âm mà thành tinh, nhưng chưa gây hại đến ai. Vì có ta án ngữ mà làng ngươi không bị lũ yêu hại. Nay nơi này ngươi đang ở là vùng âm thịnh dương suy, khó mà cải được. Chỉ còn cách để một nơi chỉ toàn khí âm, thu hút lũ yêu đến mà tránh xa chốn này. Ngươi hãy tìm nơi mà chôn đầu ta xuống, lũ yêu sẽ đến đấy quấy phá, tuyệt không được đến nơi ấy mà mưu sinh!”
Nói đoạn, hồn Gải lại tiếp:
“Riêng phần ngươi, do đã thụ khí của ta, cũng mang âm khí trong người mà truyền cho hậu bối, e cũng khó thoát kiếp nạn. Nhưng đến lúc cần, hãy nói hậu bối của ngươi đào lấy đầu ta lên, sẽ có cách hóa giải!”
Nói xong, hồn Giải biến mất. Gã làm theo, chôn đầu Giải ở một vùng hoang vắng không có người. Sau này, gã sinh được bốn người con, sống yên ổn cho đến khi bị pháo Tây nã vào làng. Gã xung phong tham gia nghĩa quân, ra trận chống lại mà chết, còn vợ gã thì dẫn bốn người con cùng vài chục hộ đến vùng khác sinh sống, lập ra làng Hạ ngày nay.
Về phần nghĩa quân, nghe rằng họ đánh đâu thắng đó, chiếm cả một vùng rộng lớn. Đến khi cả đoàn quân vượt sông đánh giặc, cá nhảy vào thuyền đến nỗi chìm cả. Nghĩa quân chết sạch, để lại miệng đời kháo nhau rằng, họ bất tuân mệnh trời nên bị tru sát.
Chuyện này ai cũng biết, nhưng đầu con Giải chôn ở đâu thì không ai rõ. Cho đến một ngày, người ta vô tình thấy giữa sân họ Trịnh có một bài vị, trên đó ghi chữ “Nguyên” thật lớn.