15.
Đêm đó, Phương nằm ngủ miên man, chừng nửa đêm thì đột nhiên giật mình tỉnh giấc, định thần lắng tai thì nghe thấy tiếng khóc rưng rức ở đuôi giường. Phương giật mình bật dậy thì cuối giường phảng phất bóng một người…
Người đó cao ráo, mặc chiếc váy trắng phủ dài đến chân, tóc xõa dài màu đen phủ cả mặt, cứ đứng dưới đuôi giường cậu mà khóc mãi không thôi.
Phương biết là gặp ma rồi…Bóng người đó cứ đứng lặng khóc mà chẳng nói năng gì.
Lạ thay, Phương không hề cảm thấy run sợ, có lẽ cậu đã quen dần tới mức chai lì trước nhưng chuyện linh dị thường gặp rồi chăng? Thế rồi, chẳng hiểu sao chợt một dòng lệ đổ dài trên má cậu, tim Phương như chùng xuống.
Phương cất tiếng hỏi nhỏ:
“Chị Hương à?”
Rồi bóng người trắng kia từ từ vén mớ tóc đen che mặt lên. Chính là chị…
Phương giật mình thất kinh.
Là chị, nhưng không còn vẹn nguyên hình hài. Khuôn mặt sau lớp tóc đen kia dính bê bết máu, một góc đầu bên trái dập nát lòi ra cả mảnh sọ trắng…
Chị lại khóc rưng rức không thôi…
Cảm giác của Phương lúc bấy giờ khó mà diễn tả thành lời…chỉ có thể nói rằng…đau thương đến chết…
Chị lặng lẽ đưa một cánh tay ra, chìa bàn tay về Phương, rồi nói như khi còn sống:
“Chị với em sống chẳng được bên nhau, giờ chị chết đi rồi oan ức lắm, thương nhớ em lắm không quên được. Em có thương chị thật lòng thì cùng chị đi đến chốn chỉ có hai ta…”
Phương đầu óc trống rỗng, mụ mị đi, cậu bước xuống giường, đi lại chỗ chị trong vô thức, rồi cũng giơ tay lên định nắm lấy bàn tay trắng muốt của chị thì bỗng dưng lạnh hết toàn thân, đầu cậu bỗng đau quặn lên như búa bổ, Phương cảm thấy một luồng sát khí cực mạnh bốc ra từ sau lưng, tựa hồ có đôi mắt sắc lẻm phía sau, chiếu ra ánh nhìn lạnh lùng xuyên qua người Phương mà nhìn thẳng vào chị Hương.
Một tiếng cộc cằn, trầm mặc nhưng đanh thép vang lên giữa những tiếng khóc thút thít:
“Cút ngay đi!”
Là tiếng của quỷ thần…
Tiếng khóc chị nít bặt, bốn bề thinh không vắng lặng. Chị Hương rụt tay lại, lùi lại mấy bước, rồi chẳng nói năng gì mà tan biến đi ngay.
Phương hoảng hốt lao lại ôm lấy chị nhưng còn đâu nữa? Cậu chỉ còn lao vào chỗ thinh không, bóng chị đã mất dạng chẳng còn dấu vết gì.
Phương ngồi bệt xuống giường mà khóc.
Bấy giờ quỷ thần nói:
“ m dương đâu thể chung đường. Nó là ma đến bắt mày đi…”
Phương khóc òa lên như đứa trẻ nít, tiếng khóc vang động cả căn phòng…quỷ thần thấy vậy chẳng còn nói năng gì, lặng lẽ bỏ đi.
Thật là,
Mới đó vui, giờ buồn lay lắt
Mộng uyên ương, giờ hóa duyên ma
Lửa tình duyên, bỗng dưng vụt tắt
Lệ nhòe mắt, quỷ cũng xót xa.
…
Lại nói tới Hạ, hồi tối thấy Phương có biểu hiện lạ như thế, trong lòng Hạ tràn đầy nghi hoặc, sau khi người ăn mày kia đi khuất, Phương vội vàng chạy đuổi theo chẳng nói năng gì, rồi lại thất thểu quay về, Hạ thấy lạ lắm nhưng hỏi gì Phương cũng không nói nữa, rồi hai đứa cùng đi về.
Hạ đưa Phương về tới tận nhà, hai đứa lại vào nhà Phương nói chuyện tâm tình mãi, Phương bảo Hạ ngủ lại mai về nhưng Hạ không chịu, tới hơn mười một giờ đêm rồi lò dò đi lên đường lộ để về nhà.
Lên tới đầu cầu, Hạ thoáng liếc nhìn đường ray ngần ngại…
Kì lạ chưa? Con đường này đã đi tới hàng trăm nghìn lần, nhưng sao lần này bỗng nhiên thấy sợ hãi…
Trời khuya quá rồi…
Hạ thoáng phân vân…hay là đi ngoài đường lộ cho chắc nhỉ? Nhưng đi ngoài đường lộ thì có mà cả tiếng nữa mới về đến nhà mất…Hạ cứ nghi hoặc dùng dằng mãi, nhưng sẵn tính can trường, sau cuối cùng vẫn quyết định bước lên đường sắt, nhắm hướng cầu đi qua mà về nhà.
Hạ bước đi thoáng cái đã đến chân cầu, còn cách gốc dừa độ chừng chục bước chân. Khi đi ngang gốc dừa, tự dưng Hạ thấy lạnh người, bước chân vô thức rất nhanh…Hạ khẽ liếc trộm nhìn qua gốc dừa…
Kì lạ chưa? Chỗ đá trưa nay chính tay cậu lấp đầy hốc dừa, giờ không còn nữa, chỉ còn thấy khoảng trống âm u…
Bỗng dưng mồ hôi túa ra chảy khắp mặt. Hạ đã bước lên cầu…
Tiếng chuông báo tàu* đã vang lên réo rắt, nhưng Hạ chẳng nghe thấy, lọt vào tai Hạ bây giờ là những thứ âm thanh khác.
(*Chuông báo tàu: chuông báo phát ra từ các chòi canh tàu mỗi khi sắp có tàu.)
Đó là thứ âm thanh âm u ầm ì dưới lòng sông…Sông bỗng dưng dậy sóng, thứ âm thanh của nước hay của thứ gì khác? Các vong ma ngạ quỷ đang không ngừng rên xiết dưới lòng sông kia ư?
Bỗng phía sau Hạ vang lên tiếng gọi:
“Anh ơi!”
Tim Hạ hẫng đi một nhịp, chân lại bước vội hơn nhưng rồi dừng lại hẳn. Hạ lầm rầm niệm trong miệng bài Chú Đại bi*.
(*Chú Đại bi: Thần chú của Quan âm Bồ tát.)
Hạ im lặng nghe ngóng, rồi ngoái cả đầu về sau xem xét.
“Anh ơi kéo em ra với.”
m thanh phát ra từ gốc dừa, của một đứa trẻ con…Hạ nhìn thấy cánh tay nó chìa ra khỏi gốc dừa vẫy vẫy…
Chính là nó… con yêu nghiệt đã giết chết chị Hương…
Bỗng một niệm ác lóe lên trong óc trong tim Hạ, sự hoảng sợ mới đây đã mất hết, thay vào là một cảm giác căm tức sục sôi, mắt lửa bỗng đỏ rực, Hạ quay ngoắt người lại đi về phía gốc dừa, cả người nóng bừng bừng.
Khi tới gốc dừa, Hạ khẽ cúi xuống đất, nhặt một viên đá to, dễ to đến cả bàn tay, rồi nói thật nhẹ nhàng với nó:
“Đừng sợ, anh đến ngay đây.”
Đứa bé lại khóc thút thít trong gốc dừa mà nói vọng ra:
“Anh ơi em chơi trốn tìm với bạn…”
Đứa bé vừa cất lời, Hạ đã tới sát gốc dừa, cậu lập tức dộng thẳng viên đá to đùng vào khoảng trống nơi gốc dừa.
Trong gốc dừa vang lên một tiếng kêu ai oán đau đớn…Rồi Hạ chẳng nói năng gì, cứ cúi xuống nhặt đá mà ném lia lịa vào gốc cây tối tăm, vừa ném vừa rủa sả rất thậm tệ, mỗi phát ném gốc cây lại gào lên đau đớn.
Bao nhiêu giận dữ đau xót Hạ trút hết ra…được một lát thì thấy mệt lử, trong hốc cây chẳng còn tiếng gì, Hạ mới thở ra một hơi khoan khoái rồi ung dung bước lên cầu đi tiếp.
Nhưng lạ thay đi được dăm bước chân thì một trận cuồng phong từ đâu nổi lên ầm ào, cây hai bên bờ sông nghiêng ngả, cành lá bay phần phật, dưới lòng sông lại vang lên tiếng rên rỉ gầm gào, sóng theo gió mà đẩy ào ạt.
Hạ không còn giữ được cảm xúc, tái mét người rùng mình sợ hãi, mồ hôi đổ như tắm ướt đầm cả lưng, nhưng lại thấy lạnh tới thấu da. Rồi lại thấy thấp thoáng đầu cầu bên kia một bóng đen lạ kỳ, nhìn rõ ra, hình như có tận ba bóng, bay lượn khi tỏ khi mờ rồi tan.
Hạ quýnh chân bước vội thì bỗng nhiên nghe ầm ầm bên cạnh…
Là tàu hỏa, tàu đã tới từ lúc nào, đang chạy qua cầu sát rạt nơi Hạ đứng cách chưa đầy một mét. Hạ hoảng hốt dạt ra theo phản xạ, tay nắm lấy lan can bước tiếp thì chân bỗng hẫng một nhịp.
Gì thế này? Sao trên lối bộ qua cầu lại có cái lỗ…miếng bê tông làm đường qua cầu bay đâu mất từ khi nào? Rõ ràng trưa nay vẫn còn…Hạ hụt chân rơi thẳng xuống lòng sông lạnh giá…
Thật là,
Chốn hoang vu sông nước
Thủy thổ rất thiêng liêng
Người thường lại dám hỗn
Dễ chuốc họa vào mình.
…
Trong khoảnh khắc vô định, Hạ thoáng thấy những bóng đen dưới lòng sông đang chồm khỏi mặt nước mà lao cả vào mình, tiếng gầm gào nay đã nghe ra những tiếng cười the thé.
Rồi một tiếng “ùm”, Hạ đã rơi thẳng xuống sông…
Nước vừa chạm thân là Hạ lạnh thấu hết tim gan, nửa đêm nhiệt độ cũng thấp, Hạ thấy ngộp, chới với giữa dòng, nhưng từ nhỏ đã lang thang lếch thếch khắp nơi, quen với sông nước nên Hạ lấy lại bình tĩnh rất nhanh, cậu không la hét gì mà rướn cổ, hít một hơi thật sâu rồi bình tĩnh bơi vào. Cái lạnh đến thấu da cắt thịt, mắt Hạ như bị một luồng hơi sương bốc lên từ mặt sông phủ, hoặc có thể do trời đêm đã tối, lại chẳng có trăng sao, chỉ thấp thoáng ánh đèn le lói của những nhà cao tầng bên khu Bắc, Hạ cứ thế bơi mà chẳng biết mình đang bơi về đâu, bơi mãi mà chẳng thấy tới bờ, sóng thì vẫn đánh dữ dội vào bên mạn sườn của cậu.
Đến lúc hai tay đã mỏi nhừ, sức đã có phần đuối, có vẻ cậu đang không bơi vào bờ mà đang bơi xuôi chếch theo dòng sông. Rồi Hạ bỗng thấy chân trái nặng trịch như đeo chì, như có thứ gì đó đang bám lại, níu cậu lại…
Thôi xong, vướng vào rong rêu gì rồi chăng?
Hạ hít cho khí no vào lồng rồi ngụp xuống, co người lại để với tay xuống cổ chân gỡ thứ vướng ra, nhưng tay cậu lại chạm vào vật gì đó như thể bàn tay ai đang lôi xuống…Hạ mở mắt ra cố nhìn nhưng dưới nước quá tối không nhìn ra được, cậu lại phải ngoi lên đớp lấy không khí.
Rồi bỗng dưng cậu cảm giác như chỗ chân trái bị giật xuống nước, trên lưng lại như có ai đang ngồi lên, nặng nề vô cùng, Hạ cố vẫy thêm vài cái mà tay chân đều đã mỏi như, nơi cổ chân cứ bị ma lôi liên tục, rồi bỗng nhiên đau đến thấu trời xanh như thể vừa bị ai bẻ cổ chân gãy làm đôi.
Hạ hét lên bất lực… đau đớn quá…Nước xộc vào họng vào mũi, rồi tràn vào phổi cậu.
Hạ lại rướn lên để đớp lấy hơi.
Được thêm một chập thì cậu lả đi hẳn, tay chân chẳng còn giữ được nhịu bơi mà khua khoắng loạn xạ, nước tràn vào mũi miệng nhiều hơn…
Rồi người Hạ nhũn ra, tay chân thõng xuống, cả đầu cả thân đều chìm dần dưới mặt nước, phút giây mơ hồ, cậu thoáng thấy ba bóng đen đang bay là là sát mặt nước, lộ ra rõ hình thù quái gở.
Rồi mắt Hạ từ từ nhắm lại, không còn cảm biết được gì…
…
Ở tỉnh Tây An, cách nơi sông Hạc khoảng hơn trăm cây số về hướng Nam, có một ngọn núi tên Vu, trên núi có một đạo sĩ hiệu là Huyền n, người ấy chuyên đi lang thang xem địa lý phong thủy, xem vùng đất nào tốt vượng thì mách cho người ta làm ăn, nơi nào đất xấu có ma quỷ thì liền dùng thần chú gọi nó lên, rồi lấy kiếm chém vào mà trừ nó đi, không trừ được nó thì dùng phép mà trấn yểm, cứ thế mà đi lang thang bốn biển là nhà, nơi đâu nhờ coi việc thì đến, lấy thù lao xong hoặc nhiều thì mang cho trẻ em lang thang, ăn mày ăn xin cơ nhỡ, hoặc nhà chủ khó khăn thì lại chỉ xin lộ phí mang mà đi đường, cứ vậy đã nhiều năm nay, chẳng nơi nào trên đất nước mà không ghé qua. Nhân dịp dăm hôm trước đi qua thành phố Nam Thuận làm lễ xem đất cho một gia đình nọ, thì nghe trên sông Hạc có đứa bé chết đuối nhưng pháp sư gọi hồn không về, người trong vùng biết tiếng liền mời thầy Huyền n đến sông coi cho.
Đạo sĩ ngắm nghía sông núi ở đây hồi lâu, rồi lập đàn mà cầu, ngồi im đến cả tiếng chẳng nói năng gì, rồi thắp hương khấn vái, cầm kiếm gỗ đào mà chém loạn xạ, đoạn lại vẽ bùa chú đốt lên mà rải xuống sông, rồi nói với người dân khu Bắc rằng sông này có thủy thần điều khiển ma quỷ, nguyên là một con rồng xanh sống dưới lòng sông, người thường không có cách nào trừ được nó, nay chỉ biết lập bàn thờ, chờ chọn ngày tốt giờ tốt sẽ quay lại động thổ mà lập miếu cúng cho các vong hồn chết dưới sông này, cúng cho thủy thần thì về sau sẽ không còn tai nạn nữa, vong hồn đứa trẻ chết đuối dưới này khi đó cũng tự khắc mà được thần tha cho về để độ sinh. Nói đoạn Huyền n lại đi vòng quanh địa phận khúc sông và cầu, xem xét rất kĩ, rồi dừng lại ở một hốc cây dừa to bên chân cầu mà nói người dân lập bàn thờ đặt ở đây, hạ bàn thờ xong thì đạo sĩ vẽ ra một lá bùa màu đỏ, to cỡ bàn tay, trên vẽ hình một con Rồng bằng mực chu sa màu xanh, hai góc bùa vẽ hai thanh đao đặt ngang lưng Rồng, và vẽ thêm thần chú, rồi dùng keo mà dán chặt nó vào sâu trong hốc cây dừa, làm thêm lễ khấn vái xong xuôi chỉ trong một buổi, rồi ung dung cầm kiếm ra đi.
Đi được cũng khá xa, đã sang đến tỉnh khác, thì lại nghe trong lòng bất an, ruột cứ nóng cồn cào, kiếm gỗ bằng đào để trong bao mang bên mình cứ rung lên không ngừng, mở ra nhìn thì thấy chữ Vu khắc trên lưỡi kiếm rực sáng, biết là có điềm, nên đành tất tả quay lại sông này, tối nay thì đến nơi. Từ xa nhìn lại nơi gốc dừa thì thấy oán khí vang trời, nhìn xuống lòng sông thì mặt sông gầm gào, sát khí bốc lên che phủ cả xung quanh bán kính tới ba mươi mét, vậy là biết có chuyện chẳng lành, đạo sĩ lại gần xem thì bàn thờ không còn đâu nữa, trong gốc dừa lại lấp đầy đá cuội đá hộc, đạo sĩ thất kinh, chân tay rụng rời hồn vía lên mây, vội vàng lôi hết đá ra khỏi hốc dừa, thì thấy đạo bùa chú yểm rồng xanh dưới sông này nay chẳng còn đâu nữa… đạo sĩ ngước mặt lên trời mà thở dài, rồi đành im lặng chờ đợi. Đêm nay chọn đêm có trăng rằm sáng, chờ tới giờ Tý, đạo sĩ đi quanh khúc sông một hồi, chợt nhìn ra một nơi, đất còn chút vượng khí, sáng lên trong đêm, cách nơi gốc dừa độ chừng bốn mươi mét, nên lại lần bụi lau bờ sông mà mò đến, rồi ngồi đây lập đàn tràng, một mình trong đêm khấn vái, nói đoạn lại đốt hương đốt bùa, sau đó thắp mười tám cây nến xếp thành hình sao La Hầu, rồi vẽ một đạo bùa, trong bùa có hình một vị tướng quân, cưỡi con ngưa lớn, tay cầm thanh đao to, thắp hương khấn vái, rồi cầm kiếm vẽ lên không trung chữ “Hoành Liêu”, tức thì hào quang tỏa ra muôn nơi quanh lá bùa, sáng cả bờ sông, rồi từ lá bùa hiện ra một vị tướng quân trông uy nghi rực rỡ, râu dài tới bụng, mặt đỏ phừng phừng, đầu đội mũ miện dát vàng, thân mang giáp trụ màu xanh, đeo dai lưng màu đỏ tía, tay cầm thanh đao rất dài, trên thân đao vẽ hình con rồng uốn quanh, cưỡi trên con ngựa trắng rất đẹp, bốn chân ngựa đều có lửa phừng phừng.
Thật là,
Tướng trời oai nghi lạ
Vì đạo mà hiện thân
Dùng đức mà giữ cõi
Phù độ cho người trần.
Đạo sĩ liền nhìn vị tướng mà khấn rất dài, tóm tắt như sau:
“Nay bần đạo dùng tài mọn gọi lên thiên tả tướng quân Hoành Liêu, mong nhờ oai đức của ngài mà giữ cho khúc sông này tạm yên, chờ dân đen nơi đây lập xong miếu lớn thờ phụng cho thủy thần thì mời ngài về trời.”
Khấn xong đoạn dập đầu lạy ba lạy, tức thì vị thần tướng nhà trời kia tan đi, lá bùa còn sáng thêm một hồi rồi tắt, rồi đạo sĩ lấy một thanh kiếm gỗ nhỏ, cắm lên lá bùa, ghim nó vào một gốc cây, rồi lấy lau sậy bên bờ sông mà phủ lên.
Xong xuôi công việc đang sắp xếp đàn tràng thì bất ngờ có tiếng tàu đêm vang lên, đạo sĩ hướng mắt về cây cầu nhìn, thì bỗng thấy như có bóng người trên cầu rơi xuống, nghe “ùm” một tiếng, tức thì vứt hết cả nghiên bút đàn tràng mà tất tả chạy lại cứu người, chạy một quãng xa muốn hụt hơi, đứng sát chân cầu nhìn ra, thì thấy người bị rớt xuống sông kia có vẻ đã mệt lả, tay chân khoắng loạn xạ mà rất yếu, rồi đạo sĩ thất kinh nhìn thấy trên đầu người ấy có nhiều bóng đen bay lởn vởn, rồi những bóng đen dưới mặt sông cứ thế ngoi lên mà bu lên đầu người chết đuối, nhưng rồi bỗng trong tầng không thấy hiện ra ba bóng đen rất lớn, sau lộ rõ hình hài là ba bóng quỷ…
Ba quỷ đó đạo sĩ có biết, chúng còn gọi là Tam quỷ câu hồn*, con thứ nhất là Tột Khốc, dung mạo to lớn, đầu ngựa mình người, tay cầm cái chùy to có nhiều răng, tay kia cầm sợi xích sắt lớn; con thứ hai là quỷ La Sát*, người nhỏ mà dài, không thấy rõ tay chân và khuôn mặt, chỉ thấy khoác một áo chùng dài màu đen, áo có mũ trùm kín lên cả đàu, nhìn được thấy đôi mắt sáng quắc, một tay cầm cái bao to màu bạc, tay kia lại cầm một cái thòng lọng dài; con thứ ba là quỷ Vô Tận Ý*, thân chỉ là một đám khói đen, không nhìn rõ ra hình, chỉ thấy được đầu là một sọ trắng, trên sọ lại lưa thưa vài sợi tóc màu đỏ, một tay quỷ cầm thanh kiếm màu vàng dài, tay kia cầm một lá bùa màu vàng.
(*Tam quỷ câu hồn: gồm có ba con Tột Khốc, La Sát, Vô Tận Ý đi cùng nhau, đồi với người bình thường khi chết đi thì chỉ có mình Tột Khốc tới bắt, nhưng đối với các hạng quỷ thần, yêu tinh, các bậc Thánh, vong ma ngạ quỷ, Huyền nhân, pháp sư thì phải có cả Tam quỷ cùng đi; *La Sát: quỷ chuyên bắt trẻ con, có phép biến thân hóa được nhiều hình dạng; *Vô Tận Ý: còn được gọi là quỷ Vô Lậu, quỷ này có phép gây ra ảo giác, lại có phép Vô niệm ý, xuất hiện bên cạnh người chết chỉ trong một ý nghĩ của người ấy, đây là con duy nhất biết nói trong Tam quỷ, thường hiện ra thuyết cho những người Huyền nhân hoặc quỷ thần chưa chịu phục chết.)
…rồi chợt thấy ba quỷ đó chẳng nói chẳng rằng mà vung pháp khí ra đánh vào bọn ma Da, không cho chúng nó bắt hồn người sắp chết đuối kia. Quỷ Tột Khốc chỉ vung chùy một nhát, tức thì những bóng đen yêu ma dưới lòng sông vừa bay lên lập tức tan ra hết, lại chui xuống lòng sông, sóng dưới sông đánh cuồn cuộn.
Đạo sĩ hoàn hồn, chẳng kịp cởi đồ mà nhảy ngay xuống sông, nhờ ánh hào quang từ thần tướng tỏa ra mà cứ thế bơi thẳng ra chỗ người bị nạn. Tam quỷ thấy có người bơi ra cứu, biết số mạng người này chưa hết, thì cứ thế mà tan đi, không bắt người nữa. Lúc này người chết đuối ấy đã chìm hẳn xuống, đạo sĩ vội lẩm bẩm niệm phép Bức thủy* rồi lặn xuống, chỉ thoáng chốc đã nắm được lấy tay người kia, rồi cứ thế mà bơi dìu vào bờ.
(*Bức thủy: Hành giả luyện được phép này có thể nhịn thở dưới nước.)
Hóa ra là một đứa bé trai, đưa vào được đến bờ thấy chân tay đã lạnh cả, vội vàng dò mạch tượng thì thấy lúc ẩn lúc hiện, có còn sống sợ cũng chết não mất thôi…tức thì đạo sĩ rút ngay lá bùa Thiên hướng âm chi chú* cất trong áo ra đã ướt sũng, dán vào sau gáy đứa trẻ, rồi cứ thế vừa miệng vừa tay mà hô hấp cho nó thở lại…
(*Thiên hướng âm chi chú: thần chú trị thương do tai nạn.)
…
Hạ ho ra mấy ngụm nước lớn, sặc sụa rồi dần hồi tỉnh.
Mắt mở ra từ từ, Hạ nhìn thấy có một bóng người đang cúi xuống mà hô hấp nhân tạo cho mình, thần thức giác quan đã lơ mơ quay trở lại, Hạ lại ho thêm mấy tiếng nữa thì tỉnh hẳn.
Rồi người đó từ dìu Hạ ngồi dậy.
Hạ lại láo liên đảo mắt lần nữa, rồi bỗng thấy rất lạnh, người cậu ướt nhẹp, run lên bần bật. Hạ lại thấy như có thứ gì vướng vướng nơi gáy liền lần tay rờ về sau, thì thấy gì như mảnh giấy, cậu giật ra giơ lên dưới ánh trăng xem, giấy màu vàng, trên giấy có vẽ nhiều chữ và hình kì dị mà cậu không hiểu.
Rồi Hạ lại nhìn người đàn ông kia, ông ấy cũng đã ướt nhẹp hết cả, nhưng khuôn mặt nhìn lại như sáng rõ giữa đêm. Trông người đó rất lạ, khuôn mặt chữ điền vuông vức, râu dài tới hầu, tóc dài ngang vai, tai to, vành tai cong lên, hai lỗ mũi nở to, môi dày mà thâm, đôi mắt to, ánh nhìn sáng lạ, người đó mặc một áo dài màu trắng ướt nhẹp, tay áo rất rộng, chùng xuống, trên ngực áo lại có một hình tròn âm dương màu đen trắng, mặc quần màu đen, ống quần chùng, dài xuống, đi đôi dép gỗ có đế cao.
Người đó cất ra tiếng nói nhẹ nhõm vui mừng:
“Vẫn sống…”
Hạ nắm lấy tay người ấy mà nói khẽ, giọng hãy vẫn còn yếu lắm:
“Bác vừa cứu cháu à?”
Người đó không trả lời mà đứng phắt dậy.
Người ấy vừa đứng dậy thì Hạ thấy cao lớn dị thường, dễ phải cao đến chừng hai mét, uy nghi kì lạ, quần áo ướt hết dính bám vào thân để lộ vóc người lực lưỡng, thể hình cân đối, bờ vai lại rất rộng trông như hùm như beo…
Rồi Hạ hỏi ngay:
“Bác là ai? Tên họ là gì? Bác cứu cháu như thế cháu trả ơn thế nào được đây?”
Người đó đáp:
“Tôi đây theo đạo đã lâu, nay tên cũng không còn dùng nữa, mà dùng đạo hiệu là Huyền n, giờ làm nghề đi xem địa lý* kiếm cơm.”
(*Thầy địa lý: thầy đi xem phong thủy, hướng mồ mả, hướng nhà cửa…)
Nói đoạn chìa tay ra kéo Hạ đứng thẳng lên hỏi:
“Cậu thấy trong người thế nào?”
Hạ đáp:
“Cháu thấy ổn rồi.”
Huyền n nói:
“Khúc sông này có tà khí, ban đêm chẳng nên đi lại qua đây.”
Hạ lặng im không đáp, nhìn xuống dưới dòng sông, mặt sông nay đã lặng im, không còn sóng dữ, cây cối cũng im lìm, một cơn gió thoáng qua cũng không thấy, đêm mùa hạ không khí oi ngột. Hạ lại ngước lên nhìn cầu, thấy cầu vẫn im ắng. Bấy giờ đã tỉnh táo hoàn toàn, cơn thập tử nhất sinh đã qua đi, Hạ mới thấy nóng bức trong người, liền lột phăng áo ra, vắt cho khô nước đi rồi lấy lau người lau đầu cho khô.
Bất chợt lọt vào tầm mắt ở xa, Hạ nhìn thấy một đốm lửa sáng lập lòe cách đó chừng độ bốn mươi mét, liền quay sang vị đạo sĩ mà nói:
“Cái gì kia? Ma chăng?”
Huyền n nói:
“Không đâu, là thần binh tôi đặt để giữ vía cho sông này.”
Thật là,
Quỷ trả thù, người rơi vào cận tử
Ngắm điềm dữ, thầy phong thủy cứu nguy.