CUỘC CHIẾN GIỮA CÁC PHÁP SƯ VÀ HAI CÕI ÂM – DƯƠNG
CUỘC CHIẾN GIỮA CÁC PHÁP SƯ VÀ HAI CÕI ÂM – DƯƠNG . BÀI 1
Thân gửi các bạn . Nhân lúc ” Nông nhàn ” , dienbatn xin kể về những điều đã được chứng kiến trong thời gian đi Ta Bà . Đây là những chuyện ” Thực như Bịa ” . Do những người trong cuộc còn đang hành nghề ở khắp nơi trên đất nước này . Vì lý do tế nhị , dienbatn xin được không nêu tên thật của họ . Để có thể cà kê dê ngỗng , kiếm chút cháo tiền nhuận bút của bác Hùng Sơn , dienbatn xin viết theo dạng những mẩu chuyện ngắn , do vậy mạch của câu chuyện không theo khuôn phép nào cả . Muốn biết sự việc ra sao – Xem hồi sau sẽ rõ .
1/ CHUYỆN ÔNG BẢY THÀY BÙA Ở CHÂU THÀNH – TÂY NINH .
Ngày xưa , khi người viết còn là một công chức nhà nước , được phân công công tác về một nơi chưa hề có khái niệm về địa lý nào trong đầu – Châu Thành – Tây ninh . Xuất phát từ Sài sòn , từ sáng sớm , đáp chuyến xe đò lèn chặt người lên Thị xã Tây ninh . Chiếc xe cà khổ , có lẽ sản xuất từ những năm NAPOLEONE còn làm tiểu đội phó , cứ nhẩy lên chồm chồm và liên tục xịt khói đen , may mà mình đi sớm nên kiếm được chỗ ngồi gần của sổ . Nhìn qua cửa xe , lần lượt nhìn cảnh chạy qua ngang đường : Hóc môn , Củ chi , Trảng bàng , Gò dầu …toàn những cái tên lạ tai mà lòng buồn như rau chợ chiều . Qua cây số 22 , lúc đó là Trạm kiểm soát liên tỉnh phải chờ đợi các đội kiểm soát lên lục soát hàng buôn lậu cũng mất mấy tiếng đồng hồ . Lúc kiểm tra xong , máy lại không nổ được , thế là tất cả mọi người phải xuống còng lưng đẩy hơn 50 m , cái DESOTO cũ rích mới chịu xì khói và ì ạch lên đường . Ngồi gần bác Tài xế , mặt mũi đen thui , bóng nhãy , hì hục lái xe chẳng khác nào đánh vật . Có lẽ hệ thống lái đã quá mòn nên thấy bác ta quay vô lăng tít mù , mỗi lần vào số lại lấy cây cần số để bên cạnh , nhét vào hộp số , lắc lắc một hồi làm cho hộp số kêu rống lên như heo bị thọc tiết , và cứ thế hí hoáy một hồi , bác ta cũng vào được số và chiếc xe lại ì ạch lăn bánh . Từ Sài gòn lên Thị xã Tây ninh có 99 Km , mà chiếc xe phải đi hết gần 7 tiếng đồng hồ . Vừa quá Ngọ thì chuyến đi cũng kết thúc , chiếc xe trả khách ngay tại cửa số 2 chợ Long Hoa . Lúc đó thị xã Tây ninh cũng còn thưa thớt dân cư , chủ yếu là tập trung xung quanh khu vực Cầu Quan và chợ Long hoa . Dân ở đây chủ yếu theo Đạo Cao đài và lần đầu tiên người viết được chứng kiến một đám tang với vô vàn tà áo dài trắng và cũng là lần đầu tiên biết thế nào là cái Thuyền Bát Nhã . Ngồi tại quán Cà phê cóc ven chợ , hỏi thăm đường về Châu Thành mới biết chỉ còn có một chuyến xe cuối cùng trong ngày . Thôi đành phó thác cho số phận – ” Bắt phong trần phải phong trần – Cho may ô mới được phần may ô ” – Đúng như câu hát mô đi phê mà trẻ con ở phố vẫn nghêu ngao . Ngồi gần bên cạnh trong quán cà phê , người viết chợt để ý có hai cha con một người đàn ông – Người cha khoảng gần 70 tóc húi trọc và một cậu thanh niên gày gò khoảng 20 tuổi . Sở dĩ người viết chú ý tới họ là vì cách ăn mặc rất lạ so với người miền Bắc – Áo Vạt hò và quần thụng nâu , đầu lại chít thêm một cái khăn rằn . Nhưng cái đáng chú ý nhất là ánh mắt của họ – Ngồi uống Cà phê , gần như dửng dưng với cái ồn ào của quán , ánh mắt họ trầm tĩnh , và thật là có Thần . Người viết tập trung vào ngắm nghía ông già theo thói quen mà ông nội đã truyền cho từ thủa nhỏ – Xem nhân tướng và đánh giá con người theo con mắt nhân tướng học . Quả thật , nếu không tinh mắt thì không thể phát hiện được những nét tiềm ẩn của con người này . Dáng người chắc nịch với đôi vai xòe rộng chứng tỏ một sức khỏe hơn người , đặc biệt là đôi bàn tay với những cạnh vuông và chằng chịt vết sẹo , có lẽ đây là một cao thủ về KARATE không biết chừng . Đặc biệt nhất là đôi mắt – Một đôi mắt như có Thần lực bắt người khác phải cúi đầu . Ông đeo tòng teng quanh cổ mình một sơi dây chuyền bằng bạc đã xỉn màu và treo trên đó một cái nanh heo rừng to tướng , phần cuối có bịt bạc nhọn hoắt . Từ con người ông toát ra một vẻ uy nghi , quắc thước và bao gồm cả một sự tin tưởng đến lạ kỳ . Đây có lẽ là hình ảnh mà người ta đã dùng để xây dựng hình tượng Võ Tòng trong cuốn ĐẤT RỪNG PHƯƠNG NAM mà người viết đã đọc từ khi còn bé tí chăng ?
Cuối cùng , cũng tới giờ xuất hành của chuyến xe chót về Châu Thành . So với chiếc xe này thì cái DESOTO ban nãy có lẽ lại là Thiên đường . Đây là một chiếc xe mà người dân tại chỗ kêu là ” Xe Đò Lở ” . Nó là một cái chuồng heo không hơn không kém , chỉ có một cái thùng đóng lấy bằng những cây ván bìa , đặt trên một bộ khung mà có lẽ bán Ve chai , các bà còn chẳng thèm mua . Đặc biệt hơn nữa , ngay đằng sau xe có một cái ống đen xì to cỡ một người ôm , đỏ rực than Cày đang cháy – Hoá ra vì khan hiếm nhiên liệu nên họ đã sử dụng chiếc xe chạy bằng than Cày như thế này đây .
Chúng tôi cùng lên xe , tôi cố tình chọn chỗ ngồi gần cha con của họ . Hai bên đường , rừng Tây ninh còn xanh ngút ngàn , những ruộng lúa , rãy khoai mì trải dài theo từng chặng . Lâu lâu , những vườn cây thốt nốt cổ thụ lại hiện ra , nhắc cho tôi nhớ rằng , mình đang đi trên đất của người Miên thủa trước .Đường lên Châu thành thủa đó còn là một con đường đất đỏ đầy bụi và những ổ voi , ổ gà to tướng . Mùa này là mùa khô nên khí hậu về chiều rất nóng bức , cộng thêm hơi người và hơi của cái lò than đằng sau xe phả lại từng chặng làm cho quần áo tôi ướt sững . Để quên đi chặng đường gian nan phía trước , tôi tranh thủ làm quen với cha con ông già . Được biết ông tên là Bẩy ( chắc gọi theo thứ của miền Nam ) , nhà gần Ngã ba Sọ ( Nơi có trường bắn tử hình người ta – Cái tên nghe ghê chết đi được ) . Ông Bảy là một Thày Bùa , chuyên chữa bệnh cứu người , nhất là những bệnh bị trúng thư , trúng Ngải phát điên vì tình . Bà lão nhà ông cũng là một Thày Bùa cao tay ấn ( có khi còn cao hơn cả ông vì hai người học cùng Thày , bà lại được xuất sư trước ) . Hiện các con ông đều theo phụ chữa bệnh với cha mẹ – Ông bà được 6 đứa con – 4 trai , hai gái . Ngày xưa hai ông bà đi khắp nơi kiếm Thày học Đạo , Trời đất xui khiến thế nào mà lưu lạc khắp nơi từ An Giang , Châu Đốc cho tới Năm Căn , nơi nào cũng in dấu chân của ông bà . Cuối cùng họ trụ lại tại chân núi Tà Lơn ( Campuchia ) gần 20 năm rồi vì chiến tranh Việt – Miên nên mới bồng bế nhau về sống tại đất Châu thành này . Chiều tà đã bảng lảng khắp nơi , quang cảnh thật thê lương , lâu lâu mới thấy một vài chòi canh rãy của dân như những chiếc chuồng chim trống hơ trống hoác bên đường . Khu vực này hầu như không có ruộng nước , chỉ có những rãy khoai mỳ ngút ngàn . Rừng và rãy mỳ chen lấn nhau suốt dọc đường đi , lác đác những gò mối nổi lên trông hao hao như cảnh cánh đồng Chun bên Ai Lao mà tôi có dịp đi qua . Gần 7 giờ tối , xe mới dừng bánh ở khu chợ ven đường mang tên Phước Thọ . Phước Thọ đâu không thấy , chỉ biết là chắc chắn đêm nay không có chỗ ngủ rồi . Tôi mời hai cha con ông già vào làm tạm một ly bạc sửu cho ấm bụng trước khi chia tay . Khu vực này không có điện , nên quán cà phê phải thắp đèn măng xông , ánh sáng trắng xanh nhức cả mắt . Vừa ngồi xuống , tôi vội lấy tấm giấy quyết định phân công công tác ra hỏi thăm đường về cơ quan . Thất bất ngờ bà chủ quán cho biết cơ quan tôi sắp đến đã chuyển địa điểm về Tân Biên cách nơi này gần 50 Km . Bà chủ quan le te , nhưng rất tốt tỏ ra vô cùng lo ngại cho tôi vì giờ này không còn xe nữa . Chán nản , tôi ngồi thượt ra thở ngắn thở dài . Thấy vậy , Ông già liền nói :
– Nếu chú không chê nhà tôi nghèo , tôi mời chú về nhà nghỉ tạm , mai tôi biểu thằng đệ lấy chiếc Đam chở chú về cơ quan .
Thật chẳng còn cách nào khác , tôi đành quay sang cảm ơn thịnh tình của hai cha con ông già và nhận lời .
Chúng tôi lầm lũi đi trong bóng tối của rừng xanh Tây ninh . Theo con đường mòn vượt qua nhiều rãy mỳ khoảng gần một giờ , chúng tôi mới về đến nhà . Nhà của hai cha con ông già nằm trên một cái gò nhỏ , xung quanh là rãy mỳ mới ngang tầm ngực . Nếu gọi là cái nhà thì thực vinh hạnh cho nó , vì thực ra chỉ là những khúc cây bạch đàn gác lên nhau và đóng bằng đinh thay các mộng gỗ . Xung quanh tường là những miếng ván bìa đóng song song , hở hếch hở hoác , nhìn bên ngoài thấy suốt cả sang bên kia . Có lẽ trang trọng nhất của ngôi nhà là một cái ban thờ , cũng đóng bằng gỗ bìa , trên có rất nhiều tượng Phật và trên vách treo nhiều tấm ảnh có hình thù lạ mắt mà tôi chưa thấy bao giờ . Trước nhà là một cái sân rộng bằng đất nện kỹ , phẳng lỳ . Bên cạnh nhà là một cái lán rất lớn có một chiếc giường bằng ván bìa dài hơn chục mét , trên đó người ta nằm ngồi la liệt . Xung quanh nhà , đây đâu cũng thấy có bếp kê bằng ba cục đá và nhiều người đang lui cui nấu bữa chiều . Cảnh tượng giống như sau những lần hành quân , chúng tôi tạm nghỉ nấu ăn vậy , nghĩa là hết sức sơ sài , tạm bợ . Tới mảnh sân , mọi người trong nhà ùa ra chào Thầy ran cả . Mọi người nói cười tíu tít và ông già lấy trong tay nải ra những thứ mà mọi người gửi mua giúp . Bây giờ tôi mới để ý thấy cái túi xách to đùng mà anh con trai mang vác về toàn là thuốc Nam . Anh lấy ra và chia cho từng gia đình một .
Ông già giới thiệu tôi với mọi người và kêu tôi ra giếng tắm . Một anh con trai da đen trùi trũi lẹ làng hướng dẫn tôi ra giếng và rất nhanh , anh kéo cho tôi một chậu nước to tướng . Giếng ở đây rất sâu và nước lạnh ngắt . Tắm xong , tôi lần mò vào nhà đã thấy một chiếu nhậu linh đình bày ra sân . Ba tấm chiếu đại bày ra sân mà có vẻ còn vẫn chật . Trên đó là những tấm lá chuối lớn bày rất nhiều thịt gà , những bát canh chua cá và cả chục chai rượu đế trong vắt . Bát đũa cũ mèm và cái cao cái thấp trông thật tức cười . Ông Bảy kêu tôi : – Hai , mày vô đây gần tao nhậu cho zui . Tôi rón rén đến ngồi gần ông Bảy , chỗ người ta vừa mới nhích ra nhường . Cái ly duy nhất chạy vòng theo tua nhanh hơn cả cánh qụạt , chẳng mấy chốc tôi thấy đầu óc lâng lâng , mọi sự mệt nhọc chạy đâu hết ráo .
Đêm xuống dần , khí trời trở nên hơi se lạnh . Xung quanh bàn nhậu người ta bàn tán đủ thứ chuyện trên đời , nhưng nhiều nhất là nói đến những ca chữa bệnh thần kỳ của ông Thầy . Có một cô bé tuổi chừng đôi tám , da trắng tóc dài , môi đỏ chót trông chẳng khác gì hoa hậu . Một cậu con trai cùng xã , thầm yêu , trộm nhớ , theo đuổi mãi không được liền nhờ một Thày Chà với số tiền khá lớn bỏ ngải mê cho cô . Yêu đương đâu chẳng thấy , chỉ thấy cô bé tự nhiên điên loạn , xé quần xé áo , đi lõa thể ngoài đường , bốc ăn những thứ dơ bẩn . Gia đình cô đã mang cô đi rất nhiều Thày và bệnh viện , hơn một năm rồi không khỏi . Lần cuối , nghe người ta mách đưa cô vượt cả trăm Km lên nhờ Thày Bẩy . Trước khi đi , hình như cô bé biết nên chống cự kịch liệt , cắn xé cả những thanh niên đứng gần . Người nhà cô phải trói chặt chân tay cô lại , bỏ nên xe lôi đưa lên . Khi vào tới cổng , cô tỉnh dậy kêu thét và chửi bới dữ dội nên không ái dám đến gần . Mấy anh con trai và Đệ tử của Thày Bảy vừa mở trói cho cô , bị cô cắn xé tơi bời làm anh nào cũng hoảng sợ bỏ chạy . Thấy vậy , Lão bà liền đứng dậy , tới bàn thờ Tổ lấy một ly rượu cúng và đốt ba cây nhang khấn khứa gì đó , sau đó bà phun rượu và khoán nhang lên cô bé . Chỉ có thế mà cô bé tự nhiên im lặng , sợ sệt như chó phải pháo . Người ta đưa cô vào nhà và sau ba lần trục Vong bằng ba con gà trống , bữa nay cô bé trông đã tỉnh táo và ngồi thẹn thùng bên cạnh bà mẹ , nghe người ta kể chuyện của mình .
Thấy vậy , tôi vội hỏi Thày Bảy : Bác ơi , trục Vong bằng gà là làm như thế nào ạ ?
Ông Thày mỉm cười nhìn cái thằng tôi như thương hại và nói : – Nếu cậu muốn biết , sáng mai dậy sớm mà coi .
Đêm đó tôi giăng võng nằm ở hàng ba , tuy có rượu rồi mà vẫn trằn trọc không ngủ được . Xung quanh tối đen như mực , chỉ nhìn thấy bóng những hàng cây tối om . Trên bàn thờ Tổ , còn leo lét vài ngọn đèn dầu và những cây nhang đỏ ối . Nhìn kỹ gần bàn thờ Tổ tôi còn thấy có một cái bàn thấp hơn , trên đặt mấy hòn đá lớn nhẵn thín như những hòn sỏi nhưng rất to . Trước mấy hòn đá đó cũng có bát nhang và đồ cúng như những bàn thờ khác . Không biết tại sao lại thờ những cục đá đó nhỉ , tôi loay hoay với những câu hỏi và ngủ thiếp đi lúc nào không hay .
Một hồi chuông vang vọng trong không gian khiến cho tôi tỉnh giấc . Nhìn ra ngoài trời mới vừa hừng sáng . Đó đây , tiếng gà báo sáng rập rồn . Trong ánh nến lung linh trên bàn thờ và hương khói tỏa như muốn làm kẹo lại không khí lành lạnh của buổi sáng mai , tôi thấy ông Thày Bảy cùng các con và gần chục đệ tử đang hành lễ trước ban thờ Tổ . Giả tảng còn đang ngủ ngon , tôi nghe thấy tiếng khấn rì rầm của Thày Bảy và đám đệ tử . Nghe Thày khấn kêu các vị chư Phật , các đấng Thần linh non nước , Thần Rừng , Thần Núi… và cuối cùng là 12 vị Thần Tà : Tà Lục , Tà Hom , Tà Sanh , Tà Sấm , Tà Sét , Tà Gầm , Lục Tặc Tà Hom , Tà Lơn ,Thất Sơn , Ông Lục Tà Rù , Ông Chúa lèo , Ông Tà Đỏ ….Thày còn kêu 72 vị đại Thần gì đó tôi nghe không rõ . Có một điều lạ là khi làm Lễ , Thày Bảy và đám Đệ tử đều cởi trần trùng trục , chỉ vận có một chiếc quần tà lỏn . Khoảng gần một tiếng sau , buổi lễ kết thúc , đám đệ tử túa ra sân luyện quyền cước . Ngày xưa tôi cũng đã từng là lính trinh sát bên rừng Lào , cũng có học qua một vài môn võ thuật , song những đường quyền của đám đệ tử Thày Bảy thật là lạ lùng . Đặc biệt là họ hay đọc một tràng tiếng gì đó mà tôi không rõ trước khi múa quyền . Những người đang đi quyền có vẻ như múa hay như say rượu , mắt nhìn thẳng phía trước vô cảm , nhưng những đường quyền bung ra thật là đẹp , khiến một thằng trinh sát rừng Lào như tôi phải thèm muốn . Một điều nữa là nhờ ánh sáng đã khá rõ , tôi thấy trên bắp tay của mọi người đều có săm hình Vũ nữ APSARA của Campuchia . Thỉnh thoảng có người phóng vụt lên cây mít rất lớn trước sân và dùng hai bàn tay cong lại như vuốt hổ mà cào dọc thân cây . Cây mít sùi sì và chắc như vậy mà bị lột từng mảnh vỏ như bị một con hổ thật cào xé . Người ra đòn vào cây mít đó không hề biến sắc cũng như không hề cảm thấy đau đớn hay mệt nhọc gì cả .
Khoảng hơn 7 giờ sáng , cô con gái út Thày Bảy bê ra một nồi cháo gà bự tổ chảng , tất cả chúng tôi cùng xúm vào ăn , vị cháo gà và mùi hành , răm , mùi tiêu hột ngọt lịm thấm vào từng thớ thịt . Tất cả ăn uống nhanh chóng và ngồi nghe Thày Bảy phân công công việc bữa nay . Thật là vui khi tôi biết được sáng nay , Thày Bảy và đám Đệ tử dùng gà để trục Vong lần cuối ra khỏi người cô bé nọ .
TRỤC VONG :
Không biết Lão bà bà và mấy người phụ nữ đã đi từ lúc nào ra chợ , lúc trở về tôi thấy đã bê lỉnh kỉnh những thứ đồ cho một buổi lễ . Một chiếc tầu buồm bằng bẹ thân cây chuối được làm hết sức công phu , có đủ cột buồm , cờ quạt . Trên Tàu đặt một bộ tam sên ( Trứng + Thịt heo + Tôm khô ) , trầu cau , thuốc rê , hai cây đèn cầy . Xung quanh Đàn tràng được treo rất nhiều lá Bùa với nhiều khoeng , móc và thêm một số chữ Hán . Nhang , đèn được thắp la liệt trên bàn thờ Tổ . Trái cây , Hoa tươi , gà luộc cũng được đặt trịnh trọng trên ban thờ . Một cái đĩa lớn để dao lể , kéo và một cuộn chỉ trắng để trên bàn . Một chú gà trống chừng 2 Kg đã bị trói chân để bên cạnh .
Thầy Bẩy choàng qua người một chuỗi tràng hạt đen bóng , cùng 4 người Đệ tử dàn ra đứng 4 góc quanh Thầy . Cô bé bị bệnh từ khi thấy Thày Bảy chuẩn bị Đàn tràng lại bắt đầu rú lên từng hồi nghe lạnh cả xương sống . Người ta đưa cô bé vào ngồi trên một chiếc ghế thấp trước bàn thờ Tổ , chân cô bé duỗi ra và trước hai bàn chân người ta đặt con tàu và một mâm trái cây . Thày Bảy và các đệ tử lầm rầm khấn Tổ về , tiếng đọc chú đều đều nghe buồn thăm thẳm . Những người đệ tử của Thày Bảy lấy chỉ trắng luồn từ hai ngón chân cái cô bé vòng qua cổ , hai ngón tay cái , hai đầu của sợi chỉ bỏ vào lòng con tầu bẹ chuối . Thày Bảy mở trói con gà ra khiến nó kêu quang quác . Một tay Thày cầm con gà , một tay kia lấy chén rượu ngậm một hớp nhỏ , rồi cầm ba nén nhang khoán vào con gà và phun rượu vào nó . Lạ thay chú gà to khỏe như vậy bỗng co rúm lại và nằm im thin thít . Thày Bảy đặt con gà vào giữa hai bàn chân của cô bé mà con gà vẫn nằm im chịu trận không hề nhúc nhíc . Xung quanh bắt đầu rộ lên những hồi chú lạ tai , tiếng phun rượu phì phì , từng hơi rượu được thổi vào khắp người cô bé như những làn sương trắng . Người thì đọc chú , người thì khoán nhang . Họ tự vỗ vào lưng , vào ngực , vào đầu mình nghe đen đét . Thày Bảy cầm chuỗi tràng hạt một tay , tay kia cầm khăn Ấn vuốt dài từ đầu tới chân cô bé . Cô bé rú lên từng hồi man dại , tiếng kêu thật là ai oán như ở đưới Âm ty , Địa ngục . Bà Bảy ngồi một bên như đang nói chuyện với ai đó : – Ra mà ăn đi , thức ăn đầy ra đó , xong ta đưa về với sông với rừng , đừng có ngoan cố mà chết uổng nhe .
Người ta thổi rượu , thổi khói nhang vào miệng , vào hai lỗ tai cô bé thật nhiều .
Bỗng Thày Bảy quát to một tiếng : Mau …
Cô bé bỗng hực lên một tiếng , vươn cổ như muốn ói . Bà Bảy vội lấy một cái Hồ lô bằng gỗ nhét vào miệng cô bé và vung tay vỗ vào đầu cô bé quát : Ra mau . …
Cô bé bỗng rùng mình và tự nhiên xỉu gục xuống . Bà Bảy lấy cái Hồ lô gỗ , nhét nắp lại và dán lên đó một đạo Bùa rồi để lên bàn thờ . Một tiếng than van tuy nhỏ nhưng nghe rất rõ đầy ai oán cất lên nghe sâu thẳm từ chiếc Hồ lô gỗ .
Con gà lúc này trông thật đáng sợ , nó tím tái như vừa qua một cơn đá độ sống mái , máu miệng nó ứa ra và lật ngang sang một bên – Nó đã chết hẳn .
Các đệ tử của Thày Bảy vội vàng dùng Kéo cắt các sợi chỉ , phần thì gút thành một sợi dây có nhiều gút quấn quanh hai cổ tay cô bé và một sợi quấn tòng teng quanh cổ , trên đó có treo một túi vải nhỏ trong có các đạo Bùa . Phần chỉ còn lại bỏ lên tàu bẹ chuối và người ta vội mang cái tàu buồm bẹ chuối đó ra con sông gần nhà thả trôi sông .
Cô bé thân hình tơi tả nằm thiêm thiếp được đưa lên tấm ván gỗ cạnh đó . Thày Bảy cầm con dao lể , lể mấy chỗ ở trán và ống chân rồi nặn máu ra , máu thâm đen như màu mận chín . Người ta cho cô uống nước có đốt những Đạo Bùa bỏ vào rồi đắp cho cô bé cái mền . Cô bé chìm vào một giấc ngủ thật sâu .
Mọi người xúm vào dọn dẹp và sau đó đi tắm rửa . Mặt trời cũng đã đứng bóng . Một chốc sau , cô bé tỉnh dậy , người ta đưa đi tắm rửa thay quần áo và bắt đầu ăn cơm trưa . Cô bé đã tỉnh táo hẳn và không hề còn có bóng dáng bệnh tật gì nữa , chiều nay cô được phép trở về nhà sau khi được bà Bảy cho một nắm Bùa làm thuốc và dặn cách ăn kiêng các thứ .
Tôi ngồi coi từ đầu đến cuối và thật bàng hoàng với những cái chính mắt mình trông thấy . Chiều nay , Thày Bảy sẽ cho Đệ tử chở tôi về nhận công tác ở cơ quan mới .
Chiều hôm đó , đúng như lời hứa , Thày Bảy sai một đệ tử dùng cái xe HONDA 50 phân khối, cũ mèm chở tôi về Tân biên . Chúng tôi đi theo đường tắt nên chỉ mất khoảng 30 Km , tuy nhiên đường thì thật là vô cùng khó đi , nhiều lúc phải băng qua cả những dãy mỳ mênh mông . Trên đường đi , theo thói quen , tôi tranh thủ hỏi chuyện cậu thanh niên này . Được biết , quê cậu tận ngoài Xuân Lộc , hồi tháng 3 / 1975 gia đình cậu gồm hai cha mẹ và 9 anh em đủ cả trai lẫn gái , bồng bế nhau chạy về Sài gòn . Tuy nhiên chỉ ít sau đó , Sài gòn thất thủ trước những bước tiến quân vũ bão của phe Cách mạng . Sợ bị trả thù , gia đình cậu lại tiếp tục bồng bế nhau chạy lên Tây ninh , và ở chân núi Cậu , ngay bên hồ Dầu tiếng bây giờ . Hàng ngày , cầu cùng cha mẹ và các anh chị cuốc đất trồng mỳ, trồng điều đắp đổi qua ngày . Cho tới một ngày , có lẽ vì làm lụng quá sức , cha cậu lại bị thêm một trận cảm nên đã mất đi , để lại biết bao nhiêu cơ cực cho người mẹ và chín đứa con còn lóc nhóc . Chẳng biết cha cậu có chết phạm giờ Trùng tang liên táng như thế nào đó mà chỉ 3 tháng sau đó , tai họa đau thương , khủng khiếp liên tục đổ lên cái gia đình khốn khổ đó . Đầu tiên là chị cậu vào núi hái cây thuốc để bán cho các tiệm thuốc Nam , bị rắn Hổ Sơn cắn chết trên núi , gần một ngày sau mọi người mới hay . Tiếp theo là hai người anh lớn , đi rà sắt phế liệu , đụng phải trái mìn nổ banh xác , thịt xương vương vãi khắp vùng . Mẹ cậu vì buồn quá nên cũng chỉ hơn một năm sau lại nằm xuống , để lại 6 chị em côi cút giữa dòng đời . Những cái chết thảm thương vẫn chưa chịu rời bỏ gia đình cậu , khoảng một năm sau đó , trong một lần mang cây thuốc về Thị xã Tây ninh bán , chiếc xe đò lở , chở theo hai người chị tháo vát nhất của gia đình bị bể vỏ ( vì quá mòn ) , lật nhào xuống ruộng , làm gần chục người chết không toàn thây , trong đó có hai người chị cậu . Lúc này mấy người còn lại thật sự hoảng loạn , người anh trên cậu , phát điên và một ngày người ta tìm thấy thi thể nổi lên trong khúc sông cạnh nhà . Nhà đang đông đúc là thế , nay chỉ còn ba đứa trẻ lủi thủi vào ra . Lúc đó cậu còn có người anh 15 tuổi , một người 14 tuổi và cậu 12 tuổi . Một lần , cả ba đi làm cỏ mỳ gần Điện Bà Tây ninh trên núi Bà , chiều về nhà không kịp , các cậu tá túc nhờ nơi cửa Thiền . Ngày đó Điện Bà Tây ninh , vì cuộc chiến cũng sơ xác hoang tàn . Chỉ có một vị Sư già hàng ngày nhang khói trong cửa Phật . Sau khóa tụng kinh tối , Vị Sư già ngồi hỏi chuyện ba đứa trẻ về hoàn cảnh gia đình . Sau khi nghe xong , Nhà Sư lặng lẽ mở một cuốn sách chữ Nho rách nát ra và bấm đốt tay tính toán . Mãi một lát sau , nhà Sư mới cho biết cha các cậu chết nhằm đúng ba Trùng Tam Xa , nhị Xa , Nhất Xa . Thật hiếm có người nào phạm vào giờ độc như vậy , chết Trùng phạm vào cả tháng , ngày , giờ . Nhà Sư còn cho biết hạn của gia đình cậu chưa hết và còn rất thê thảm . Ánh mắt đượm buồn , nhà sư nói : – Lẽ ra , ta phải cho các con ở lại đây nương nhờ bóng Phật , may ra mới có thể thoát khỏi kiếp nạn này . Nhưng giờ đây nhà Phật tan hoang , không biết thân ta có còn giữ nổi mình không nữa – Lực bất tòng tâm – Thật là kiếp nạn . Nói rồi nhà Sư ngồi lặng im , cậu thấy ánh mắt nhà Sư già như ngấn nước mắt .
Nhà sư già lặng lẽ bước vào chính điện , lấy trên bàn thờ mấy lá Sắc của Mật tông phái , thắp hương , thỉnh chuông và lầm rầm đọc chú . Một lúc sau , nhà sư quay lại chỗ ba anh em đưa cho ba lá Sắc và nói : Đây là ba lá Sắc hộ mạng ta vừa xin cho các con . Nhưng trên núi này bây giờ không thể tìm kiếm được Tam Thần nên ta nghĩ rằng không thể giải trừ triệt để oan nghiệp của gia đình các con được . Âu có lẽ đó cũng là số phận .
Đêm đó nhà sư già ngồi trước Tam bảo đọc kinh chú cho tới sáng .
Những ngày sau , ba anh em nhà kia vẫn hàng ngày đi làm mướn nuôi thân , hàng ngày lúc rảnh rỗi , chúng leo lên trên sườn núi Phụng , núi Heo để hái cây thuốc về bán hay đi câu Thằn lằn núi về bán cho các quán nhậu ở dưới Thị xã . Cuộc sống lặng lẽ trôi đi được hơn một năm , cho tới ngày giỗ người chị cả chết vì bị rắn cắn , bỗng người anh cậu đang ngồi ăn cơm , bỗng nhẩy bật dậy , nhẩy lên giường đứng , mặt mũi đỏ gay , bọt mép xùi ra và nói với giọng lạnh băng : – Ba , má và các anh chị về đón các em đi đây .
Nói xong ngã vật xuống bất tỉnh . Mấy đứa sợ quá kêu khóc như ri khiến những người hàng xóm kéo đến chật cả nhà . Nghe chuyện xẩy ra người ta bàn tán xôn xao và mách các cậu phải sang gấp Huyện Châu Thành kiếm ông Thày Bảy để giải nạn cho .
Ngay trong ngày , bà con láng giềng kẻ ít , người nhiều , đóng góp tiền bạc và thực phẩm giúp cho ba đứa trẻ , mướn một cỗ xe lôi chở đồ đạc trực chỉ Châu thành .
Sang đến nơi , thật là sui cho ba anh em , Thày Bảy đi chữa bệnh ở xa , mấy bữa nữa mới về . Cả ba anh em đành làm một cái chòi nhỏ gần nhà Thày để đợi Thày về . Trong đêm đó , người anh liên tục lên cơn gầm rú , kêu đòi lấy mạng của cả ba anh em . Đệ tử của Thày Bảy có qua phụ giúp , nhưng chỉ vài tiếng sau những cơn điên lại nổi lên . Từ trong miệng người anh , hàng tràng tiếng thổ ngữ lạ tai phun ra như mây bay , gió cuốn . Cả chục đệ tử của Thày Bảy đứng xung quanh , kẻ phun rượu , người khoán Bùa , kẻ ngậm dầu phun lửa , những tiếng vỗ vào cơ thể họ nghe chan chát . Con Tà kia càng ngày càng hung hăng , nó cũng chạy lại bàn thờ lấy ba cây nhang đang cháy , khoán những vòng tròn và những nét Bùa bí ẩn vào các đệ tử Thày Bẩy . Một lúc sau , ba , bốn đệ tử Thày Bảy bỗng ngã vật ra đất xùi bọt mép , thân hình co rúm lại . Mọi người vội khiêng họ lên chiếc chiếu đặt trước bàn thờ Tổ . Phía ngoài kia , cuộc chiến vẫn vô cùng ác liệt , các đệ tử của Thày Bẩy vẫn tiếp tục thi triển pháp thuật . Tiếng đọc chú ngày càng mau , tiếng tự vỗ vào ngực mình ngày càng mạnh . Các đệ tử lúc này đã dùng chính bản thân họ , tay cầm những bó nhang lớn vây quanh con Tà thành một thế trận sinh tử . Lúc này , con Tà không còn đường nào thoát khỏi thế trận được bày , mặt khác lại liên tục bị tấn công bằng lửa nên bắt đầu luống cuống , nét Phù nó khoán càng ngày càng chậm . Khi cảm thấy ngày tận thế gần kề , con Tà bỗng hét lớn lên một tiếng , bung người lên cao và đọc một loạt tiếng chú lạ tai , tiếng chú nghe xót thương , ai oán , như giận , như hờn . Bỗng nhiên , người anh kế mắt mũi trợn ngược , nhe cặp nanh ra , hai tay múa quyền xông vào trận và dựa lưng vào người anh , quay đủ tám cửa bung ra hàng loạt Phù lạ mắt . Ngay lập tức , hai đệ tử của Thày Bẩy bị hất văng ra xa . Trận đồ liên hoàn nay đã bị phá . Một chuỗi cười nghe thê lương chợt vang lên từ miệng người anh . Hai con Tà tận dụng thời cơ , tới tấp tấn công các đệ tử còn lại của Thày Bảy . Họ lùi dần , lùi dần đến sát tận hiên nhà , ngay trước bàn thờ Tổ . Hai con Tà cười vang đắc thắng và chúng hùng hổ tiến về phía bàn thờ Tổ , tính sẽ đá văng bàn thờ Tổ của ông Thày Bảy .
Các Đệ tử của Thày Bảy người nào cũng kiệt lực , lảo đảo đứng thành hàng ngang , lấy thân mình che bàn Thờ Tổ . Hai con Tà từ từ tiến vào …..
Bỗng ngoài ngõ vang vọng tiếng xe Hon da , hai chiếc xe vọt khẩn cấp vào sân . Thày Bảy và lão bà từ trên yên xe , bung lên nhẩy qua đầu hai con Tà và đứng chắn trước hàng đệ tử , lúc này đã lần lược gục xuống .
Thày Bẩy đứng tấn trước hàng đệ tử , một tay cầm chuỗi tràng hạt xoay tít , một tay ông dùng Ấn Hỏa bung ra một lượt bảy lần Linh phù tứ tung Ngũ hoành , miệng đọc liên tục :
” Nhất tung khai Thiên môn ,
Nhị tung bế Địa hộ ,
Tam tung lưu Nhân ngôn ,
Tứ tung sát Quỷ lộ .
Nhất hoành trừ nạn khổ ,
Nhị hoành độ Nhân thân ,
Tam hoành trừ ác tặc ,
Tứ hoành trừ Sát nhân ,
Ngũ hoành trừ Hung Thần .
Cấp cấp như Cửu Thiên Huyền nữ y như luật lệnh ” .
Khi Linh phù cuối cùng được phóng ra , hai con Tà vội tìm đường tẩu thoát . Chúng vội vàng quay đầu như muốn phóng thẳng vào trong bụi rậm gần mép nước . Chẳng chậm một giây , Lão bà lấy ra một gói nhỏ trong túi vải vẫn quàng qua người và nhanh như điện xẹt , bà chạy quanh hai con Tà một vòng , vừa chạy vừa tung một chất gì đó màu đỏ như máu thành một vệt đỏ vòng quanh chỗ đứng của hai con Tà . ( Về sau này mới biết đó chính là Tam Thần : Thần sa , Châu sa , Huỳnh hoàng ) . Hai con Tà bị nhốt trong vòng tròn Tam Thần , không còn đường chạy , mắt long sòng sọc , tru lên những hồi man dại .
Ở ngoài , theo lệnh ông Bảy , lão bà cùng mấy Đệ tử còn lại ngồi xếp bằng và chắp tay niệm CẨN CÔ THẦN CHÚ :
” KHẢN KHẢN SẮC SẮC NGŨ LANG,
CẨN CÔ CẨN CÔ TRÁ BÀN TRÁ
TỨ ĐẾ, TỨ THÁNH, TỨ THIÊN VƯƠNG.
BÁT ĐẾ, BÁT THÁNH , BÁT KIM CANG.
ĐẦU ĐẢNH HỎA LUÂN TRẤN TỨ PHƯƠNG
HÀNG THIÊN MA, HÀNG ĐỊA MA
KHỬ ÔN ĐẠO, TRẢM TÀ MA.
ÁN SẮC LỆNH, TRẢM SẮC LỆNH,
ĐÁO TRẢM SẮC LỆNH, TA BÀ HA.
HỎA LUÂN KIM CANG TAM SÁI THẦN
KHƯỚC ĐẠP KIM CANG TRẤN THIÊN MÔN
KIM MÔN TỰ HỮU HUỲNH KIM TẢ
KIM MAO SƯ TỬ ĐÁI KIM LÂN
KIM LANG ĐIỆN THƯỢNG AN KIM TẢ
KIM NAM KIM NỮ KIM HIỆP CHƯỞNG
CHẤP KIM LƯ, KIM TỊNH BÌNH
KIM CANG NHIỄU CHUYỂN KIM PHẬT ĐIỆN
BÁ VẠN TỨ THIÊN KIM CANG THẦN
VĂN KINH NGỮ THÍNH CHƠN KINH
HỮU NHÂN TỤNG ĐẮC CHƠN KINH THẬP NHỊ BỘ
THẮNG TỤNG HOA NGHIÊM NHỨT TẠNG KINH
THIÊN LÔI CHẤN ĐỘNG KIM CANG
ĐỊA LÔI CHẤN ĐỘNG KIM CANG
PHẬT ĐẢNH KIM CANG
DI SƠN TẮC HẢI KIM CANG
PHAN THIÊN PHÚC ĐỊA KIM CANG
TRẤN THIÊN TRẤN ĐỊA KIM CANG
MAI ÔN TÀNG THƯ KIM CANG
ĐẠT MẠ LÃO TỔ KIM CANG
NGŨ BÁ GIỚI HẠNH KIM CANG
THIÊN HẠ TRẤN THẦN KIM CANG ….
Ông Thày Bảy lại lấy ra một gói lớn gồm chín vị thuốc Bắc bao gồm : Thần sa , Châu sa , Hùynh hoàng , Sương truật , Địa liền , Quế chi , A Ngùy , Huyết giác , Đại Hồi ném tới tấp vào hai còn Tà . Lập tức , đang hùng hổ gầm thét , hai con Tà nhũn như chi chi và lật đật quỳ xuống vái lấy vái để hai ông bà Bảy . Nghiêm sắc mặt bà Bảy hỏi : – Chúng ngươi là ai mà sao dám ngông cuồng giết người , chiếm xác , lại còn muốn đạp đổ bàn thờ Tổ của ta nữa , lớn gan thật – Khai mau , không ta cho một chảo Ngũ lôi oanh đỉnh thì vĩnh viễn bất đầu thai nghe chưa ?
Con Tà lớn vái lấy vái để hai ông bà Bảy và thưa : – Dạ thưa Đại sư , chúng con chính là những vong hồn của bày rắn Hổ Sơn đã tu luyện lâu năm trên núi Cậu . Gia đình chúng con gồm đúng 12 người , đủ cả lớn bé già trẻ , tổng cộng tới 4 đời sống dưới chân núi Cậu . Một ngày cách đây 7 năm , trong một trận càn quét , một quả bom 500 Bảng Anh đã thả đúng chỗ gia đình chúng con sinh sống , than ôi , thịt nát , xương tan , cả gia đình chúng con chẳng còn một mống nào cả, ụ mối rất lớn trong bụi mây là nhà của chúng con biến thành một cái ao rộng lớn . Hồn chúng con vẫn vơ vẩn ở khu đó để tìm được người thế mạng mình mới đi đầu thai được . May quá , có gia đình kia gồm mười một người dọn đến ở trên đất của chúng con . Chúng con cứ luôn canh chừng họ để chờ thời cơ . Vận may đã đến khi người cha của họ chết đúng vào Trùng tang Tam xa . Theo đúng luật Âm , chúng con được bắt chín người trong gia đình họ để thế mạng . Tuy nhiên vì không đủ người thế mạng nên chúng con phải tìm cách bắt nốt mấy người còn lại . Chỉ hiềm vì gia đình họ có tổng cộng mười một người nên chúng con phải theo đến đây , xem ai hợp căn thì bắt nốt cho đủ 12 người , lúc đó Gia đình chúng con mới đầu thai hết được . Chúng con biết tội của mình , nhưng không thể làm khác được , mong ông bà đại xá cho chúng con .
Thày Bảy nghiêm mặt nói : Lũ chúng bây đâu biết Trời cao Đât dày gì cả . Họ có tội tình gì mà các người giết chết cả nhà của họ , các ngươi có biết không .?
Một con Tà vội nhổm đầu lên cãi : – Thế gia đình chúng con có tội gì mà chết tuyệt cả họ , lại chẳng ai được toàn thây ?
Nói rồi nó gào lên nức nở . Thày Bảy im lặng , một nét buồn sâu thăm thẳm vương trên nét mặt . Một lúc ông mới nói : – Hận thù nên cởi chứ không nên cột , nếu cứ trả thù mãi thì nghiệp oán trùng trùng lấy chi gỡ đây . Thôi ta bảo hai nhà người , để ta tụng kinh cầu Siêu cho cả họ nhà ngươi được siêu sanh Tịnh độ , hưởng công đức của chư Phật . Hai người mau trả lại thân xác cho người ta . Từ đêm nay ta sẽ tụng liên tục chín ngày đêm cầu siêu cho họ nhà người , về báo với gia đình như vậy nhé . Nói rồi ông quát nhỏ một tiếng : – Mau . Lập tức hai cái thân xác kia dãy dụa và lăn ra đất bất tỉnh . Con Tà đã ra đi .
Ngay đêm đó , Ông bà Bảy và đám Đệ tử lập Đàn cầu Siêu thực lớn cho họ nhà Rắn đủ chín ngày đêm liên tục . Hai người anh đã được trả xác vẫn còn ngây ngây dại dại , ông bà Bảy phải chữa cho cả tháng sau mới khỏi . Đám đệ tử cũng phải mất cả tuần sau mới lại được người . Từ đó , Ông Thày bảy lại có thêm ba đệ tử hàng ngày học Pháp thuật và cùng ông bà chữa bệnh cứu người . Mấy năm đã trôi qua , không ai còn nghe thấy gì về họ nhà Rắn Hổ Sơn trên núi Cậu nữa , ngoại trừ khoảng nửa tháng sau trận đó , một cô bé đang ngồi chơi bên hè bỗng chắp tay cung kính vái ông bà Bảy : Gia đình con xin cảm ơn Đại sư ngàn lạy . Chúng con đã được siêu thăng .