Home Truyện Ma Thành Viên Ma rừng – Tác Giả Đôi Mắt

Ma rừng – Tác Giả Đôi Mắt

Câu truyện ông kể hồi nhỏ, thuở người kinh đi vào tây nguyên định cư cụ thể là Tà Lài. Tà Lài là một xã có cả người kinh và dân tộc Mạ, mà hay gọi là châu mạ. Những năm sau giải phóng người kinh vào định cư mạnh, người mạ rút vào vùng sâu hơn, vốn là những người con của núi rừng họ thích đi rừng bẻ măng săn bắn hơn là làm ruộng cày cấy như ông nội tôi. Ông tôi ngày đấy nước da đen rắn tỏi to ngang nhưng hơi thấp cũng tầm vóc lên có quen với những người dân tộc Mạ, ông kể họ rất tốt bụng khi bắt được con lợn rừng họ cũng hay chia phần cho ông. Những lúc nông nhàn rảnh rỗi hay theo họ đi rừng có khi đi mất tăm cả tuần, bà ở nhà lo quýnh cả lên.

Ngày xưa rừng thiêng nước độc cũng không hiếm truyện lạ thường nhưng với con người dày dặn như ông đã từng kinh qua biết bao trận mạc máy bay mu-tang dội bom trên đầu, UH1A phóng rocket tiện đứt cây dừa đổ lên người ông vẫn gan lì, thì ông chả biết sợ là gì. Ông kể có hôm vào rừng gặp một đứa bé sơ sinh chết người tím ngắt kiến bu trông tội lắm định đào lỗ chôn thì ông dt mạ đi cùng cản lại nói là đứa bé này người buôn bên cạnh cúng con ma rừng đụng vào đêm con ma về đòi bắt người đi nên ông ko chôn nữa. Hôm sau đi về ông mình mới hỏi kỹ lại thì ông cà-rế kể là buôn cạnh sườn có đôi trai gái phải lòng nhau nhỡ có bầu cái bụng to ra đẻ con bị làng bắt vạ phải mang đứa bé đi cúng con ma rừng, như vậy là làng đang còn thương, lần trước có đôi kia còn bị đuổi vào rừng sau có người phát hiện cả 2 người bị con ma rừng phạt chết bên vách núi người bị xé nham nhở dòi bọ lúc nhúc không dám chôn sau còn vài khúc sương nhặt nhạnh đem về thôi. Còn dặn thêm ông mình là đi rừng thấy đồ đẹp như thổ cẩm hay bát đĩa thì đừng lấy khỏi con ma nó theo về. Ông mình ngày xưa còn thiếu thốn với không tin ma quỷ có lần đi rừng thấy có cái nồi bằng đồng rất tốt ông lượm mang về định làm cái tát nước, trên đường về không hiểu lẩn thẩn thế nào cũng con đường cũ hàng ngày mà ông đi mấy vòng cũng vẫn chỗ cũ ko hiểu ông lại cố đi tiếp thi bị lạc đường còn xém bị ngã xuống đồi toàn tre gai nữa, mà lạ thay bữa nay ông đeo gùi trên lưng thấy nặng hơn hẳn mọi ngày mà cũng chả có gì chỉ có 2 cây măng với cái nồi đồng mà như gùi cả cục đá tảng vậy, như hiểu ra cái gì ông bỏ cái nồi ra rồi khấn xin trả lại con ma rừng ông mới tìm đường về được.

Sau lần đấy ông mình như tin hơn về cái gì đó mà đã từng nghe ông cà-rế kể đó là ma rừng, nhưng vì cuộc sống còn khó khăn ông vẫn đi rừng, ông kể vào khoảng tháng cuối mùa mưa năm canh thân ông cùng đoàn khoảng 6 người dân tọc mạ đi rừng săn lợn nòi có dắt theo một con voi vì sợ hùm, phải đi khá xa, trong đoàn có vợ chồng ka-siêng cưỡi voi đi đầu ông chồng ngồi trước bà vợ đeo gùi ngồi trên lưng voi, đi đoạn có cành cây rủ xuống chắn ngang ông chồng rút mã tấu chặt, cây mã tấu vung ra chém ngang ngực bà vợ ngồi sau, nhát mã tấu sắc làm ngọt một đường từ bụng lên tới ngang ngực lòi cả ruột gan ra ngoài, chỉ kịp hét ré lên một tiếng bà vợ ngã từ lưng voi xuống đất máu tuôn loang lổ không nói được lời nào thoi thóp một lúc thì chết, ông chồng khóc không ra tiếng nhìn cảnh rất thê lương. Mọi người ai cũng kinh hoàng, sau khi chết bọc xác bà kasieng vào tấm vải dù máu vẫn thấm nhỏ từng dọt khắp đường, đi về buôn làng được nửa đường thì trời đã nhá nhem tối, không gian bao trùm tử khí không có nhang đèn chỉ rặt một mùi máu tanh nồng và tiếng cóc nhái kêu, chỉ một tiếng động cũng làm dật bắn tim, trên đường về cứ nghe tiếng chân chạy bình bịch đằng sau quay lại thì chỉ thấy màn đêm dày đặc của cánh rừng chứ chẳng có ai, đi tiếp lại nghe tiếng chân bình bịch nện trên nền đất nghe nặng nề khó nhọc, đường về làng còn xa đến cả buổi trời mà đã tối mọi người đi trong im nặng. Cuộc đời ông cảnh tang thương chết choc gấp mấy thế này ông còn chả sợ, mà sao hôm nay ông thú nhận rằng ông đang sợ thật sự, ông run lên từng hồi toàn thân lạnh buốt đi sát vào bên cạnh đoàn, sương đêm rừng núi mờ tối đã bắt đầu giăng phủ bốc lên từng đợt khói trắng mờ ảo, đi sau là con voi trên lưng đang chở xác bà kasieng cái xác bị vướng vào cây rừng rớt xuống đến mấy lần do được cột chặt không là ruột gan phèo phổi bay ra hết rồi. Đường thì còn quá xa trong cái tình cảnh ngặt nghèo ấy ai nhìn mặt cũng đen thui chỉ thấy hai con mắt, cả đoàn quyết định dừng lại đốt lửa nghỉ qua đêm sáng mai đi tiếp. Mọi người mới bắt đầu người kiếm củi người lấy cây căng tấm vải dù còn lại lên, ông kasieng thì như người mất hồn ngồi thừ lừ nhìn vào bóng tối.

Lửa cháy mọi người chia nhau ăn tạm nắm sôi nếp, xác bà kasieng thì để mãi bên kia nằm im lìm bất động, đống lửa ẩm ướt cháy yếu ớt toả thứ ánh sáng ảm đạm khác hẳn với ngày thường. Mọi người đi ngủ chia ra thay nhau canh xác sợ mùi máu tanh hùm beo hay chó mèo gì lại lấy xác, ông mình xin canh đầu tiên vơi ông kasieng luôn. Ông kể hôm đấy ông canh đến 11 giờ đêm với ông kasieng ổng như người mất trí ngồi im như tượng quần áo còn dính máu tanh, ông mình sợ ko dám ngồi gần, lửa cháy dc một lúc thì tắt trời thì tối ko ai đi lấy củi chỉ còn vài đốm than đỏ, cảnh đêm lạnh buốt của đại ngàn cùng thứ âm thanh côn trùng quái dị của rừng đêm, chứ ko phải hiền hoà như tiếng dế tiếng ễng ương ở nhà. Không chịu được cảnh bóng đêm tĩnh mịch ông gọi một người khác cùng đi kiếm củi dò dẫm trong bóng tối, kiếm được củi về mọi đốt lên được một lúc mới giật mình là ông kasieng đâu mất tiêu xác bà vợ thì vẫn còn. Mình có hỏi sao đi rừng mà ko có đèn pin, ông nói ngày xưa nghèo đi rừng đi gom đống lửa to đốt tới sáng thôi, do hôm đấy bị vậy ko chuẩn bị kịp lo mang xác bà kasieng về nửa đường tối rồi ko kiếm dc củi. Mọi người có gọi và chờ mà ko thấy ông kasieng đâu, đêm hôm ấy mọi người tuy đã rất mệt nhưng vẫn ráng thức, mãi khuya mới ngủ, con voi cột ở đàng xa cứ thi thoảng lại kêu toáng lên dậm chân như muốn chạy, lúc đấy ông kabut đang canh ở ngoài giật mình nhìn về phía con voi hãi hùng thấy có bóng người cao từ mặt đất qua cây ngái, ông nói tính ra con ma đấy phải cao hơn ba mét, vì người bình thường chỉ cao tới nửa cây ngái, giữa đêm tối mà ông thấy rõ cái miệng con ma mom móm không có tóc mắt vàng như mỡ bò da nhăn nhúm đang nhìn chằm chằm về phía ông, ông nhẩy bắn về sau mấy bước ngã bổ về sau, mấy ông tộc nói là con ma rừng chắc nó bắt mất ông kasieng rồi.

ma-rung-u-minh

Gà rừng vừa gáy điểm trời đã gần sáng, sáng ra moi nguoi đi tìm thấy ông kasieng mặt mũi tái xám nằm bất động cách đấy ko xa nhưng vẫn còn sống, toàn thân phù thũng sưng tấy chông rất thảm. Mấy ông tộc quyết định chôn lại xác bà kasieng lại vì bả đã bị ma rừng bắt rồi sợ mang bả về con ma đi theo bắt hết mọi người. Về tới nhà phải mời thầy cúng ông kasieng mới dứt trở lại như cũ, qua thăm ông kasieng kể tối hôm đấy ông thấy bà kasieng vẫy vẫy tay ông lại nửa mê nửa tỉnh đi lại thì không biết gì nữa, từ hôm đấy ông hay mơ thấy bà về khóc nói đói và bị đánh nhiều lắm. Ở buôn có thầy cúng già xem cho kasieng nói con ma này muốn lấy mạng vợ chồng ông vì ngày trươc ông giết quá nhiều thú rừng, ông nhớ lại 2 năm trước có vào rừng đặt bẫy dính một con voi mắc lâu ngày đã chết, trong làng ông còn khét tiếng là tay thợ săn cừ lần nào đi rừng cũng lơn nòi, tê tê, nhím, trăn gấm.. đủ cả, chiến tích nhất là thuần hoá cả một con voi rừng mà ông đang cưỡi, mà cả buôn ko ai có, ở trong nhà ông còn treo hẳn cái đầu con trâu mộng, răng lợn rừng cột thành dây treo ở cửa. Bây giờ phải làm một mâm xôi nếp với bình rượu và hai hình nhân giả tẩm máu gà trống tơ xin hồn bà kasieng về. Hôm đấy thầy cúng và một số người đi ra mộ bà kasieng thì thấy mộ đã bị con gì đào lên do lúc đào lỗ huyệt quá cạn, cái tấm vải dù bị xé toạc ra nửa thân bị kéo lên khỏi mặt đất trơ ra ống xương chân khẳm lên một thứ mùi rùng rợn.. còn tiếp, phần sau bạn sẽ biết cái gì đã bới mộ lên, vì sao con ma rừng nó lại để cho ông kasieng sống và con ma rừng cao hơn 3 mét là thứ ma gì.
NgocDat
NgocDat

Theo dõi
Thông báo của
0 Góp ý
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận