Giải bùa cho người chết thích hợp nhất vào lúc nửa đêm trăng rằm, ta dặn dò gia chủ chuẩn bị lễ vật đầy đủ, chờ ngày ấy. Tối đó, ta và vợ chồng chủ nhà cùng ba người hàng xóm ra giữa bãi tha ma của bản, đến ngôi mộ đứa nhỏ. Theo yêu cầu của ta, phải đào mộ lên, mở nắp quan tài, đợi đến khi ánh trăng soi thẳng vào mặt xác chết thì làm lễ.
Trăng thanh sáng vằng vặc soi rõ từng nấm mộ lớn nhỏ nhấp nhô. Thằng bé chôn đã hơn một tuần xác bắt đầu phân hủy, mùi hôi bốc lên nồng nặc, nhang khói cắm xung quanh nghi ngút. Gần mười hai giờ đêm, ánh trăng chiếu thẳng xuống mộ, ta hắt ba chén rượu xuống đất xin thổ thần cho phép bắt đầu hành lễ. Đọc trú một lúc bỗng từ xác chết bò ra ba con trùng dài loàng ngoằng, uốn lượn trên mặt đất một lúc rồi biến mất. Đây là trùng tay thầy pháp kia yểm vào, nghe trú của ta nó buộc phải rời bỏ xác. Tay thầy pháp này dùng trùng độc thì cũng không phải là vừa. Biết dùng thuật này ông cụ bảo chỉ có được vài người thôi. Ta mừng thầm vì thành công được một bước. Ta lấy cọc bùa bước xuống đóng bốn góc huyệt mộ. Đóng đến cái thứ ba, bất ngờ xác thằng bé bật dậy khỏi quan tài. Vợ chồng chủ nhà và ba người hàng xóm hoảng hồn kinh hãi vứt hết đồ đạc bỏ chạy bạt mạng. Ta kịp trấn tĩnh lại, ông cụ cũng kể cho ta vài lần chứng kiến xác thiêng bật khỏi quan tài. Những lúc ấy là nó đang bị điều khiển, còn bản thân xác chết thì không sống lại được. Lúc này ta đoán ra rằng, tay thầy pháp kia lúc này đã biết bùa của mình đang bị phá nên ra tay quật lại ta. Xác thằng bé vô hồn đứng ngây như một khúc gỗ, hai mắt chỉ còn là hai cái hốc sâu hoắm kinh dị. Trăng khuya lạnh lẽo, cảnh vật ma quái, ghê rợn khiến người cứng bóng vía như ta cũng rùng mình ớn lạnh.
Ta cố với tay tính đóng nốt chiếc cọc bùa cuối cùng thì bất ngờ xác chết quay ngoắt về phía ta giơ hai tay lên tính lao vào bóp cổ ta. Ta lùi lại mấy bước sợ toát mồ hôi, thầm nghĩ tay thầy pháp này quả cao tay, trong xác đứa bé phải còn vài con trùng bị yểm trong đó chưa ra hết. Nó đang nhận lệnh từ chủ nhân tấn công ta. Đang lúng túng không biết xử trí thế nào, chợt sực nhớ con dao của Thào A Lùng vẫn giắt ở thắt lưng. Lại nói về con dao này. Sau khi học các thuật của ông cụ, ta lấy con dao đó luyện lại theo cách A Lùng đã làm để phòng thân. Rút con dao ra, nhắm giữa ngực xác chết phóng tới. Lưỡi dao vừa chạm vào xác chết đổ gục xuống đất, máu đen rỉ ra loang lổ trên mặt đất. Những mảng thịt đang phân hủy rụng lả tả nhầy nhụa quanh xác thằng bé. Hai con trùng trắng chui từ bụng xác đứa bé bò ra quằn quoại một lúc thì biến đi. Vậy là hắn đã sử dụng ngũ độc trùng hại chết đứa bé. Chết vào giờ thiêng thì thể nào cũng quay về bắt người thân đi theo. Ở dưới xuôi gọi hiện tượng này là chết trùng tang hết sức độc địa. Cắm xong cọc, lấy con dao về ta nhanh chân rời khỏi bãi tha ma hoang vắng. Sau lưng tiếng gió xào xạc, bóng cây lay động chập chờn dưới trăng khuya ma quái, dị thường. Mãi tới sau này ta vẫn còn ám ảnh buổi tối rùng rợn hôm ấy.
Mấy bữa sau đi chợ, ta gặp người cùng làng lên buôn bán ở biên giới. Họ kể mấy năm ta bỏ nhà đi biền biệt, ông bà nội ta nhớ thương đi tìm nhưng không biết ở đâu. Hai ông bà, tuổi cao, bệnh nặng, lần lượt mất đi. Nghe tin dữ lòng ta quặn đau, thầm trách tuổi trẻ bồng bột, ngang tàng làm người thân phải vì mình mà đau khổ. Ta xin phép ông cụ về thăm quê. Về quê nhà ông bà không còn đâu chỉ thấy hai ngôi mộ xanh cỏ, ta ôm mộ khóc ngất. Nghĩ đến người cha đoản mệnh, ông bà neo đơn, cuối đời bệnh tật không ai chăm nom lòng ta càng buồn bã đau xót.
Bái lạy hương hồn ông bà và cha xong ta lại khoác túi vải ngược đường Tây Bắc mà đi. Lang thang dưới gầm trời cô hành độc bước, tha hương muôn nẻo quên đời đau thương. Ta tính sẽ nối nghiệp ông cụ người Mông, bốc thuốc chữa bệnh kiếm kế sinh nhai lại làm phúc cho đời. Nhưng hỡi ôi, vừa bước chân vào bản, mọi người đã loan tin ông cụ vừa mới qua đời, bà cụ về ở với đứa con gái út. Nhìn ngôi nhà sàn nơi ông cụ đã truyền dạy ta học thuật bùa trú giờ cửa khóa then cài, hoang tàn, vắng vẻ ta đứng chết lặng đi. Chợt nhìn lên tấm ván gần cánh cửa bên trái ta thấy vài nét chữ viết tên một loại bùa cực độc, nét chữ đúng là của ông cụ. Ta lờ mờ hiểu ra rằng ông cụ đã bị trả thù, sức già yếu, ông không thể chống trả được. Trước khi chết ông vẫn cố gắng viết tên loại bùa đã hại ông để cho ta biết. Ta lập tức đi dò hỏi thì được hay, loại bùa này chỉ có tay thầy pháp người Thái bản bên mới làm được. Với khả năng của ta không dễ gì đấu được với hắn. Ta quyết tâm đi học thêm khi nào đủ khả năng sẽ gặp tay người Thái làm rõ chuyện này. Ngày trước ông cụ vẫn kể cho ta nghe tài nghệ siêu phàm trong thuật dùng bùa của thầy Bàn Lý Sáng người Mán. Muốn học thầy này phải có nhiều tiền, vàng, nhưng không phải ai ông cũng nhận dạy.
Giờ làm sao xoay sở kiếm được nhiều tiền đây. Chợt hồi tưởng lại thời đâm chém ở các bãi vàng tiền nhiều tiêu không hết, phung phí, vung vãi. Nghĩ đến ta sự nhớ nhóm ta khi ấy có cất giấu một số vàng thô mới đãi được ở hốc đá gần lán trại. Sau đợt bị đánh úp trong đêm tối ta dường như quên mọi chuyện, xóa bỏ hoàn toàn quá khứ tội lỗi. Vì thế ta không còn nhớ đến thứ ấy làm gì. Ta thử một lần tìm đến xem, có khi loạn lạc không ai còn nhớ tới nên có thể còn đó. Tìm tới chốn cũ bây giờ đã hoang hóa, cỏ cây lau sậy um tùm rậm rạp. Lần mò mãi ta mới thấy được hốc đá năm xưa. Thật kì lạ, lật tảng đá lên, bọc vải vẫn còn nguyên hình dạng. Cầm lên thì vải đã mục nát nhưng bên trong còn nguyên những vụn vàng trước đây cả nhóm đãi được. Mừng quá, ta cúi tạ trời đất, vong linh những người trong nhóm xin được sử dụng số vàng bị bỏ quên này.
Ngay sáng hôm sau ta lên đường tìm tới nhà thầy Bàn Lý Sáng.