Home Truyện Ma Thành Viên Quá khứ- Tác Giả TAV-Soul Keeper

Quá khứ- Tác Giả TAV-Soul Keeper

1) Lần đầu mình được nghe câu truyện lưu truyền qua 3 đời dòng họ mình, lúc đầu mình cũng không tin nhưng ông mình xác thực câu truyện mình mới tin đó là thật…
Đời vua Lê Thánh Tông, khi ông bị bệnh lạ, nghĩ mình đã tới số. Một viên quan trong triều đã chữa khỏi bệnh cho ông và cứu được con chúa dã chết được 2 ngày. Thực hư câu truyện được lan truyền rộng rãi khắp nơi, nhiều người đã theo học vì nghĩ đồn thổi rằng nhiều cao nhân đã tu luyện những nơi nguy hiểm như trên vách núi, trong hang động nhiều năm có thể biến hóa,phép thuật điêu luyện… nhưng đó chỉ là lời thêu dệt trong nhân dân, để cho mọi người có niềm tin về Đạo giáo. Đằng sau đó là học Đạo để tâm nhàn thanh lạc, sức khỏe về già. Cụ nhà mình nhận ra điều đó và theo học Đạo, nhưng chính mắt cụ đã tận mắt thấy cao nhân ( giấu tên) biểu diễn thuật siêu hình- chớp mắt một cái là thấy bên này, chớp một cái nữa thì thấy bên kia… . Từ đó về sau không thấy vị cao nhân này xuất hiện thêm lần nào nữa…cụ suy nghĩ đó chắc chắn là đạo sĩ ( giấu tên). Sau này rất nhiều người đến theo học võ nghệ nhưng chỉ một số ít hiểu ra chân lí thực của Đạo giáo. Cụ có một người bạn tri kỉ tên là (B), theo học cùng cụ. Sau 3 năm học chỉ để sức khỏe, ít rèn võ nghệ,ông B rời đi tìm đến tận núi Cấm ( tỉnh An Giang bây giờ) theo học để thực sự muốn trở thành cao thủ võ nghệ và không trở về quê cũ lần nào nữa mặc dù nhiều lời khuyên bảo của cụ . Cụ mình cũng về quê dạy võ và không biết tin tức gì của người bạn mình nữa.
20 năm sau ( 1881) , cụ đi tìm ông B ở tỉnh An Giang. Lên tận đỉnh núi Cấm để hỏi, đường đi cây cối rậm rạp, không một bóng người đúng như lời đồn đại về đỉnh núi Cấm. Tới nơi cụ chỉ thấy vị thiền sư râu tóc bạc trắng khoảng ngoài 70 đang ngồi thiền một mình trong ngôi miếu nhỏ. Cụ đợi đúng 3 ngày 3 đêm, vị thiền sư đứng bật dậy và nói luôn, chưa kịp chào hỏi:
– Anh tới đây tìm thằng B phải không?
Cụ giật thót người:
-Sao ngài lại biết con tới tìm B?
-Tui ( tiếng địa phương) nhìn ánh mắt ông là biết.B đã chết được 8 năm rồi, ông tới đây tìm cũng vô ích thôi.
Cụ rất buồn định hỏi tìm hài cốt để về an táng, vị thiền sư cũng bảo luôn:
-Xương cốt cũng thành tro bụi mất rồi, chẳng còn gì đâu. Nếu ông muốn biết B tại sao lại chết thì tôi xin kể cho ông.
Cụ cảm tạ và ngồi xuống nghe. Vị thiền sư từ tốn nhấp ngụm trà rồi nói: [ Từ đây trở đi mình chuyển lời của vị thiền sư này thành lời văn cho người đọc dễ hiểu]
– Vị thiền sư nhớ mãi ngày hôm ấy, vào một đêm trăng tròn nằm hướng chính Đông. Ông đang ngồi thiền thì nghe thấy tiếng lá xào xạc ngoài kia. Ông bật dậy nhìn qua khe cửa thì thấy một người thanh niên ăn mặc rách rưới đang bò lết về phía mình, ông lao người ra dìu chàng thanh niên vào nhà chăm sóc, được 1 ngày thì tỉnh dậy và anh thanh niên không nhớ gì hôm qua hết. Ông hỏi:
– Con tên gì, ở đâu tới, tại sao con lại ra nông nỗi này?
Chàng thanh niên gật gù nhớ ra mọi chuyện và nói:
-Con tên B, con ở Đàng Ngoài , khi con tới đây, con đã bị cướp hết sạch tiền bạc và của cải chỉ còn cái thân gầy guộc này mà thôi.
Vị thiền sư đã động lòng và nhận làm người đi sau là ông B. Sau nhiều lần dạy võ nghệ, vị thiền sư đã nhận ra ông B tiếp thu rất tốt, ông liền hỏi:
-Con học võ từ ai?
Ông B bảo rằng học võ được từ vị quanh trong triều.
Vị thiền sư chắc biết người đó là ai nên ông cũng gật gù… Sau 2 năm chỉ có luyện võ và ngồi thiền,tuy có nhiều điểm mạnh nhưng ông B chưa hài lòng, vào một đêm ông ngỏ ý muốn được dạy môn võ siêu hình và thần hình. Vị thiền sư giật mình nhìn sang ông B và nói:
– Chính ta cũng chưa học thành thạo môn võ đó mà dạy cho con? Môn võ này chỉ có đạo sĩ ( giấu tên) mới làm được, trong thế gian này không ai có thể.
Ông B giật mình vì một vị cao thủ là sư phụ(‘Tu là tu thân để làm điều lành, tránh cái ác; học là theo điều đức hạnh, chứ không theo đạo giáo nào. Ở đây không có sư phụ, đệ tử, chỉ người đi trước dạy cho người đi sau, cứ nghĩ đến điều tốt đẹp mà làm. Những người sống trên núi lúc đó ai cũng phải rèn luyện võ công. Không có võ thì không tồn tại nổi ở chốn rừng thiêng nước độc này) mà chưa hoàn thành được nên thôi. Trong một lần vị thiền sư đi vắng, ông B đã tìm tòi trong nhà của ông và tìm được cuốn rách sắp rách bên ngoài đề chữ : CẤM THUẬT. Ông B tò mò mở ra xem, lật từng trang ông B rất hào hứng vì thấy những thế võ bí ẩn trong truyền thuyết, ông phải tìm bằng được môn võ siêu hình. Ông ngạc nhiên và vui mừng khi thấy những dòng chữ dạy môn võ này: bên dưới có ghi rằng muốn học được phải lấy hộp sọ của trinh nữ, đem lên tảng đá lớn vào chính đêm ngày rằm mỗi tháng, trong 7 tháng gân cốt sẽ phát triển mạnh sức khỏe dồi dào….
Ông B đã âm thầm trốn sư phụ xuống dưới núi, đem lòng giả vờ yêu một cô gái thôn quê, vào đêm rằm ông gọi cô gái đi chơi, lén ra từ đằng sau cắt đứt hộp sọ của cô gái và đem xác cô vứt xuống vực sâu thăm thẳm. Vị thiền sư thấy nghi ngờ vì vào đêm rằm hàng tháng, ông đã để ý ông B thường xuyên trốn ra ngoài tới 3h sáng mới trở về. Ông mang nghi ông B. Trong một lần xuống núi, 2 thầy trò đi qua phiên chợ, nghe được câu chuyện cô gái mất tích, ông đã biết người làm điều này khi nghe tới tin người chết sẽ bốc hỏa đổ mồ hôi, ông B đã bị như vậy.
Khi lên núi ông tra hỏi ông B rằng ông có làm điều này không, ông B cứ chối khăng khăng rằng ông không làm .
Vào một đêm trăng tròn lần thứ tư, vị thiền sư đã lén theo dõi ông B. Khi núp trên một cái cây, ông giật mình vì chính ông B đã làm điều ấy, ông lặng lẽ trở về và lặng im như chưa có chuyện gì xảy ra, ông đã hối hận vì chưa tin hẳn lời của đệ tử , việc luyện môn võ này không thể dừng được, khi sang tháng thứ 3 trở đi, việc dừng lại sẽ ảnh hưởng đến cả thể xác lẫn tinh thần: hồn phách tiêu tan, sức khỏe cạn kiệt và không thể siêu thoát được. Vị thiền sư đợi cho xong. 3 tháng sau, dường như ông B đã luyện xong vì khí tỏa ra rất mạnh, ánh mắt toát lên vẻ hung tợn. Vị thiền sư đã đứng lên hỏi với tư cách là một người sư phụ:
– Ngươi đã học xong nó rồi!
Ông B có vẻ hơi sợ sệt. Ông B đã quên chưa đọc hết cuốn CẤM THUẬT vì cắt sọ trinh nữ phải dùng lực của bản thân chứ không được dùng dao, xác của cô gái phải được hỏa táng, tro cốt phải đem lên thờ và tạ lỗi, ông B đã không xem kĩ điều này. Ông rất sợ vì những điều sắp tới và nó đang chờ đợi ông……
Chờ đợi được đúng một tháng trăng tròn, ông B và sư phụ ngồi thiền trong nhà. Chợt một cơn gió lạnh thổi đến làm 2 người rùng mình, vị thiền sư mở mắt ngay lập tức và quay người lại nhìn từ xa xa bóng cô gái không đầu đang ngồi ngay trên tảng đá hướng về phía mình, ông B cũng biết điều đó từ trước và vẫn định tâm ngồi hướng vào trong. Tiếng gió cùng với tiếng lá xào xạc càng tăng thêm vẻ hoang vu vùng đồi núi,càng tăng thêm nỗi sợ trong người.
Vị thiền sư trong lòng rất lo lắng, việc đi tạ lỗi linh hồn cô gái là chuyện khó rồi, nay lại thêm học cấm thuật, ông lo ông B sẽ không sống nổi trong mấy tháng tiếp theo vì học sai nguyên bản của võ thuật: hồn phách li thân, tứ chi phân tán, chết không toàn thây… và không thể đầu thai được. Đột nhiên ông B run lên bần bật, chân tay mềm nhũn, mắt cứng đờ trắng toát, da nổi sần. Vị thiền sư vào nhà lấy thuốc cổ truyền cho ông B uống, ông B uống xong thì ngất lịm, da dẻ hồng hào trở lại… chuyện chưa chấm dứt ở đó, ông B mê sảng thì gặp cơn ác mộng. Trong giấc mơ, ông cùng sư phụ lên núi kiếm thảo dược thì gặp một cô gái đang bị đau chân, cô gái ấy nhờ ông B cõng lên lưng, đi được nửa đoạn qua vực sâu thì bị tượt chân. Tay ông B vẫn không thể giữ được cô gái, cô đã bị rơi xuống vực sâu thăm thẳm, từ đâu chui ra một con rắn hổ mây khổng lồ ngoạm mất xác cô gái. Ông B giật mình tỉnh dậy, trời đã sáng và kể giấc mơ cho vị thiền sư nghe. Ông ngạc nhiên đó chính là mãnh thú đã sống ở đây hàng trăm năm, lợi dụng cô gái để bắt ông B theo và tu luyện thành quỷ rồi sát hại dân làng. Trong ngày hôm ấy, vị thiền sư và ông B chuẩn bị đầy đủ dụng cụ đi săn rắn, khung cảnh núi non trùng điệp hiện ra trước mắt, đường đi đầy rẫy nguy hiểm nào là cọp, rắn độc, heo rừng…nên hai người men theo vách núi và không đi dưới rừng. Tới được hang rắn, 2 người thấy 2 con rắn bằng đá không đầu nằm ngay trước cửa hang. Ông nghĩ đó là người dân xây dựng nên để thỉnh cầu ngài không làm hại tới dân làng, nhiều người lên rừng kiếm củi,hái thảo dược đều không trở về. Vì ban ngày trời sáng, rắn hổ mây không ra ngoài nên không thể vào được, mà nếu vào mà bị chúng bắt gặp thì sẽ bị ăn thịt, nếu đánh nhau thì ta chưa hiểu được địa thế nơi này. 2 người mắc võng lên cây nằm ngủ đợi trời tối.
Khi trời đã xế chiều, 2 người thấy mặt đất rung chuyển, chim thú bay hết, nhìn từ hang động chui ra một con rắn hổ mây khổng lồ dài khoảng 20m, phải ôm hết hơn một vòng tay mới qua thân của nó. Con rắn trườn vào trong rừng, vị thiền sư ra hiệu ông B xuống vào trong hang. 2 người vào trong thì thấy rất nhiều chữ được khắc lên kèm theo hình rắn ở trên hang, nhìn đâu cũng thấy, chắc chắn đã có người vào đây, càng đi sâu không khí càng lạnh… đâu đâu cũng thấy xương người và xác động vật chết. Khi thám thính hết hang động, vị thiền sư chợt nhận ra còn một cái cửa dẫn vào trong nữa bèn xuống xem. Được một lúc tay ông sờ vào một quả đá hình tròn, cánh cửa tự động mở ra, bên trong trống không chẳng có gì ngoài một bộ xương người đang trong tư thế ngồi thiền đã từ rất lâu, tay vẫn cầm một viên ngọc xanh. Dưới đất có ghi tên của người này ( giấu tên) và bên cạnh còn một quyển sách cũ nát, đã lâu như thế rồi mà bên trong không có một chút tơ nhện nào chắc có lẽ khí công tỏa ra từ bộ xương đã xua đuổi hết côn trùng đến xây tổ. Vị thiền sư suy nghĩ chắc đây là một cao nhân đã lên đây tu luyện chăng?… ông đang suy nghĩ mông lung thì có tiếng rung dưới đất, hai người bèn nhảy lên cao nhìn thì đúng như vậy ‘thần Rắn’ đã về, dường như nó ngửi được mùi của con người nên nó đã quay hẳn đầu về phía 2 người đang đứng và nhìn với ánh mắt đỏ lòm… Là một người ẩn tu nhiều năm trong cuộc sống núi rừng, hiểu được loài Rắn này, ông bảo ông B nhảy xuống đất vái 3 vái cho con rắn và đi lùi về ngoài cửa hang, chứ không được quay lưng… nếu không sẽ bị giết. Về được tới nhà, ông B hỏi vị thiền sư tại sao không giết con rắn, ông nói luôn: ‘đây là loài rắn cai quản ở đây, chỉ giết những kẻ tà gian, không bao giờ giết hại dân lành, há gì phải giết nó, mà giết cũng có khó mà giết được. Bây giờ ngươi chỉ tu tâm niệm Phật mà thôi…’ . Ông B cũng đã suy nghĩ như vậy.
Vào đúng đêm rằm tháng 7, vị thiền sư đã chứng kiến cái chết của ông B. Ông B cảm thấy người mệt mỏi, chắc thời giờ đã đến… ông B kể hết những gì trước đây ông đã làm và mong muốn trở thành cao thủ. Ông B với một lời trăn trối rằng mai đây sẽ có bạn của ông đến đây tìm ông và ông hãy kể cho người bạn đó- chính là cụ của mình. Và rồi y như trong sách, ông B giãy giụa, tứ chi tách rời nhau, da sần sùi, xương tan vỡ ra… Đến sáng hôm sau chỉ còn một ít đám tro nhỏ và nhanh chóng bị gió thổi đi, hướng gió bay về hướng của nơi ‘ thần Rắn’ đang ngự trị.’’

*Cụ mình lặng im giờ lâu vì những lời kể quá chân thật, cụ đã mất đi tri kỉ trong đời, cụ tìm những kí ức còn lại về ông B và đem về thờ trên mảnh đất quê hương này.
Về phần vị thiền sư, sau khi kể câu truyện và mời cụ mình nghỉ lại qua ngày. Nghe nói vị thiền sư đã truyền dạy chỉ một Đạo sĩ cho đến nay, đó chính là ĐẠO SĨ BA LƯỚI ( NGUYÊN VĂN Y) nay vẫn còn ẩn tu trên Bảy Núi huyền thoại.

2)

Bà mình sinh 1924. Năm bà 14 tuổi thì đi ở đỡ cho một nhà địa chủ và phải làm việc. Đến năm bà 17 tuổi thì bà lấy ông mình, cuộc sống rất thiếu thốn, tới 1945 bà mình phải đi vào trong Thanh để kiếm sống cùng đứa em.
Bà mình có rủ một bà trong xóm đi cùng, lúc đầu hai người đi tới phiên chợ đoạn qua quốc lộ 1A , bà ấy bị bọn trẻ con trộm mất tiền nên quay lại và không đi nữa. Bà mình vẫn tiếp tục đi vì nếu quay lại thì không có gì để ăn.
Đi đến đâu bà toàn thấy xác chết đói nằm la liệt. Đêm đến bà nằm trong góc vệ đường, đêm tỉnh dậy toàn thấy mấy đốm nhỏ nhỏ to bằng con bê đi đi lại lại xung quanh, bà bảo đó là ma đói.
Tới Thanh tìm được nhà của em bà. Em bà làm ở cho một ông địa chủ gần đó, ông này có một ruộng mía rất rộng. Em bà xin cho bà mình làm ở đó, cứ mỗi lần làm xong là lại được đem 2 cây về ăn, cứ thế ăn mía sống qua ngày. Nghe nói ông địa chủ này rất thương người nên ai cũng quý nhưng ngược lại bà vợ của ông lại rất độc ác, đi xem người làm toàn vác cây roi mây đi, hễ có người nào than mệt là đánh. Đêm tới có thằng bé ở đâu đến nhảy tường vào trộm mía và bị bắt, sáng hôm sau bà mình và em bà không phải làm vì vụ xử thằng bé. Nó bị trói vào cây cột và treo lên trên cao, ai nhìn cũng thương nhưng chẳng ai dám xin vì có thể chịu thay nó. Ông chủ nhìn và nói với bà vợ một vài câu nhưng bà không nghe.Được một lát, thằng bé bị đem xuống dưới sân và bị kết tội trộm mía. Do mía rất quan trọng và bà chủ rất độc ác nên đích thân bà cầm cuốc bổ đứt cánh tay của nó và sai người đem vứt ra ngoài. Bà mình thấy thương nên đem về cứu giúp nhưng do thiếu thức ăn và bị chảy máu rất nhiều nên đứa bé không qua khỏi. Bà mình và em bà chôn ở sau nhà. Mấy hôm sau bà tới làm thì thấy trong nhà ông địa chủ có chuyện gì ồn ào, bà vào xem thì thấy bà chủ đang giãy giụa sùi hết bọt mép đang lấy tay ấn đầu mình vào tường. 4 người vào giữ cũng không xuể. Một lúc có người dẫn ông thầy vào coi, ông xem một lúc và rót và bảo ấn cái lá bùa vào miệng bà. Được một lúc bà chủ nằm xuống ngất đi. Ông thầy ngồi suy nghĩ một hồi và đứng lên bảo rằng đây chính là cái nghiệp mà nhà ông phải trả, trước nhà ông địa chủ gây ra tội gì thì bây giờ phải trả thôi có trả bao nhiêu tiền ông thầy cũng không giúp.
Hôm sau bà chủ tỉnh dậy và mặt nhợt ra không ăn uống gì và miệng cứ lẩm bẩm này nọ, bây giờ trong nhà không khí sầu thảm hẳn ra như có đám tang. Người đến làm ông đưa mía cho về và bảo cho nghỉ làm một vài hôm. Sáng hôm sau ông ra mở cửa thì thấy bà vợ nằm ngoài sân lăn lăn cười cười và định lấy con dao cứa cổ may thay là ông đã ngăn kịp thời. Ngay hôm ấy ông dặn người làm là ở nhà trông bà chủ và đem lễ lên chùa, lên tới nơi thì nhà sư đang quét sân, vừa vào cổng thì nhà sư lắc đầu luôn lập tức và bảo ông về. Ông địa chủ cứ đứng thế khoảng 2h thì nhà sư chỉ giúp một phần và cùng ông về nhà. Tới nhà lúc đó thì trời cũng hơi tối. Nhà sư ngồi tụng kinh qua đêm, sáng hôm sau thì đứng dậy và bảo với ông địa chủ rằng chính đứa bé kia đã phá bà chủ nhưng nhà sư chỉ đưa nó lên chùa chứ không thể cứu sống được bà. 2 hôm sau thì bà chủ tự treo cổ ngay trước cổng nhà. Tất cả người làm đều không dám tới làm từ đó nữa duy chỉ có bà mình và em bà. Ông địa chủ nhận luôn làm con nuôi vì hai ông bà không có con và nuôi hai người đến năm 1951 thì bà mình về quê luôn và không trở lại nữa.
————————————————————————————————
3) Gầm cầu.
Năm 1943-46 lính Pháp đóng quân ngay đường ngoài ngoặt ra quốc lộ 1A bây giờ, hàng ngày chúng vào đốt nhà cướp hết của cải, bắt phụ nữ về làm chuyện đồi bại và vứt hết xác xuống sông ngay dưới bên cầu. Người dân đêm đến lại phải tổ chức vớt hết xác lên, có xác còn nằm chết ngay dưới gầm cầu không được đem chôn vì không ai để ý, xác thối rữa đến khi có người phát hiện ra mới đem chôn. Bây giờ cây cầu được gọi tên là cầu Tứ vì ngay dưới chân cầu 4 góc là 4 ngôi mộ của những người xấu số.
Bố mình chưa sinh ra vào lúc ấy nên chưa biết, hàng ngày đi rậm qua đêm qua chỗ đó suốt và nhìn sang bên kia sông thấy có người ngồi im thin thít cứ nhìn bố, bố tưởng đó là bọn nghiện ngập rượu chè gì đó nên bỏ qua, về nhà bố kể chuyện đó và được bà mình kể lại, từ đó bố mình không dám đi rậm con sông đó nữa. Năm 1998 , huyện tổ chức phá cầu xây lại ( trước làm bằng gỗ) và phải đập hết những ngôi mộ đó chuyển đi. Hôm đó có ông thầy đi qua và bảo họ phải mua lễ về làm cúng xin họ chuyển đi nhưng chẳng ai nghe. Đến đêm hôm ấy có ông thợ xuống bờ sông đi tiểu thì thấy bóng cô gái đứng sát mép sông bên kia, ông này cứ tưởng là bò đi lạc nên đã bơi qua bên kia để dở trò. Sang tới nơi ông bật nảy người vì chỗ này dốc đá thẳng đứng, trèo lên không được vốn chi trèo xuống, và không thấy cô gái kia đâu, ông này có vẻ sợ và bơi sang bên kia, trở lại ông không dám kể cho mọi người. Sáng hôm sau tiến hành đập dỡ cầu xuống, ông này do hiểu một ít nên giả vờ xin nghỉ hôm ấy. Ngay trong hôm ấy có 2 người đang ngồi nghỉ thì bị khúc gỗ to rơi thẳng vào đầu chết tại chỗ, cuộc dỡ cầu hoãn lại và mời thầy về cúng xin dời số ngôi mộ đó về nghĩa trang xã thì mọi chuyện mới được bình yên.

Cây cầu cao khoảng 15m so với mặt sông. Có khoảng 9 vụ tự tử và 2 vụ chết đuối ở đây, người ta tìm xác thì cái xác nào cũng kiểu ngồi khoanh chân, hai tay xếp chồng lên bụng. Một vài người dân đi thuyền chài ngủ đêm qua đó đều thấy có tiếng nước chảy mạnh hoặc có tiếng nhảy ùm ùm xuống nhưng ra thì thấy mặt nước lặng im như tờ, họ cũng biết đó là thứ gì nên thôi và khấn một vài câu rồi ngủ tiếp. Chỗ đó được xây một ngôi miếu nhỏ nhỏ và từ đó chuyện gặp ma cũng ít dần…..
————————————————————————————————
4)
Ông mình sinh năm 1923. Ba bốn năm nay mình toàn hỏi ông kể truyện ma, nhưng ông chỉ bảo là làm gì có rồi lảng tránh sang chuyện khác… mình biết thế nên thôi. Năm trước bà mình mất, nghe bố mẹ kể cả đời chưa thấy ông khóc lần nào, bà mất nên ông phải gọi là suy sụp tinh thần lắm luôn; Ông bị ốm 2 lần, cả nhà ai cũng lo nhưng may là không sao…
Ông có 3 người con. Bố mình là con thứ 2 nên ông bà ở luôn nhà mình. Sau khi bà mất, ngày nào ông cũng đọc thơ một mình đến nỗi mình thuộc luôn (   ai cần xuống bình luận)…Tuần vừa rồi mình bảo ông kể truyện ma đi, khác như mọi lần ông không lảng tránh nữa mà mình nhìn ánh mắt xa xăm của ông cũng hiểu phần nào.

Năm 1942 ông mình tự nguyện tham gia nhập ngũ kháng chiến. Ông được xếp vào đội đào hầm dẫn đường cho bộ đội đi qua. Vì ở quê có kinh nghiệm nên anh em trong đội phong làm đội trưởng. Công việc cũng suôn sẻ cho đến năm 1946… có một tiểu đội (tên là gì mình không nhớ) khoảng 35 người đi vào miền Trung để tiếp tế quân đội. Vì báo trước nên đội của ông đã đào sẵn được một hầm nhỏ, nhưng do gấp gáp nên chưa xác định được độ an toàn nên ông đã đánh liều dẫn đại đội đó qua. Không may rằng hôm ấy Pháp cho máy bay ném bom chặn đường tiếp tế quân lương, khi đi được nửa hầm thì thấy tiếng máy bay đến. Ông dặn mọi người nằm xuống bịt tai lại… Khoảng nửa phút sau thì thấy lớp đất phía trên rung chuyển do bom nổ, ông nhớ ra chưa lấy cây xanh phủ lên cửa hầm và bị bọn chúng nhìn thấy. Do đất yếu và sức nặng của bom, 2 cửa hầm bị sụt xuống, Đi xuyên qua ngọn đồi núi dốc, hầm dài khoảng 130m . Khoảng 5 đất đá sụt xuống chặn gần hết diện tích. Tính ra thì bị 16 người chết,ai nấy đều lo sợ, không có dụng cụ. Nếu đào ra thì mất khoảng 3 tuần mới được thì ai cũng sẽ chết vì thiếu không khí và lương thực.
Ông mình mon men theo vách đất xung quanh và quyết định bảo mọi người đào chéo xuống xem nếu may mắn sẽ xuống được một cái hang dẫn ra con sông và xuống được bản ở gần cuối con sông…
Mọi người chia nhau ra làm 4. Đào 4 hướng khác nhau, nếu hướng nào thấy trước sẽ lên báo. 4 người ở lại tìm thi thể của 16 đồng chí kia và coi nếu như ở bên ngoài cho nổ mìn phá cửa hang gọi mọi người luôn.
Ngày thứ nhất: Ông mình và những người khác đào sâu nhất ( khoảng 20m), vẫn chưa thấy đất mềm… Đêm hôm ấy đang ngủ thì ông bị bóng đè, trong cơn mê ông thấy một người lính (chắc là trong số đồng chí đã hi sinh) cứ đứng sát mép hầm và cứ lắc đầu lia lịa chứ không nói câu nào rồi ông mình bình thường trở lại. Do không tin mấy chuyện mê tín nên ông gạt qua.
Ngày thứ 2: Ông mình và mấy chỗ kia vẫn chưa tìm được đất ẩm để xác định gần nguồn nước… Lần này ông ngủ thì thấy ông của ông lại và nói 1 câu ‘ Chỗ kia chính là nơi thoát’ và chỉ tay vào đúng chỗ người lính hôm qua đã chỉ cho ông. Lần này ông bán tín bán nghi … sáng hôm sau ông hỏi có người nào đã học đạo trong những người này chưa. Số đó chỉ có 1 người thanh niên ít hơn ông 2 tuổi ,anh là người dân tộc có một số kinh nghiệm về vấn đề này. Do tách biệt ngôn ngữ nên rất khó hiểu ý nhau nên thôi. Ông vẫn tiếp tục đào chỗ hôm trước, chẳng may thì thấy một chiếc hộp gỗ nhỏ bên ngoài khắc mấy hình quỷ ghê tợn của người miền núi… mọi người đều bảo phải xin này xin nọ nhưng ông gạt phăng cả đi và tiếp tục làm… Đến chiều chiều ông cảm thấy chóng mặt và ngồi nghỉ một lát và ngủ thiếp đi được một lúc, ông bị một cái gì giật giật áo tỉnh dậy thì thấy một đứa trẻ khoảng 3 tuổi mặt đầy máu đang gọi. Ông giật mình đang bị kẹt trong đây lấy đâu ra trẻ con mà vào chứ! Ông hỏi thì đứa bé trợn trừng mắt và chạy vào trong cái hầm mà ông đào, ông đuổi theo thì nửa chừng thì không thấy đâu. Ai hỏi ông cũng chỉ nói bâng quơ chuyện này nọ, và đến nói chuyện riêng và ông đem theo cái hộp gỗ đến chỗ anh thanh niên kia. Anh chỉ hơi đăm chiêu và gật gật nhẹ và điểm chỉ ông không phải lo gì cả. Ông cũng an tâm phần nào, Đêm hôm ấy ông lại mơ thấy ông của ông và một vài người lính cứ chỉ chỉ vào chỗ đất cứng mãi không thôi…
Ngày thứ 3: Sáng hôm sau ông tìm anh thanh niên thì mọi người hoảng hốt khi thấy anh đã gục chết dưới đất và trên tay cầm cục nặn nhỏ nhỏ… ông có vẻ sợ sệt và tin vào những gì đã trải qua 2 ngày trước. Cả ngày hôm ấy không ai làm việc được vì mệt và chưa ăn uống gì suốt 2 ngày, còn một ít lương thực để dành phòng cấp bách , số lương thực kia bị vùi lấp cùng đất đá. Ông cũng hiểu rằng anh thanh niên kia đã hi sinh để cứu chính ông khỏi ma quỷ vì ông là người duy nhất có thể tìm đường cứu được mọi người.
Ngày thứ 4: Số lương thực mọi người đã sử dụng hết để lấy sinh lực cuối cùng tìm đường thoát vì ai cũng kiệt sức vì đói và thiếu ánh sáng. Buổi trưa hôm ấy ông mơ thấy rất đông người đang đứng vẫy vẫy và chỉ vào chỗ họ đã chỉ hôm nọ và biến mất. Ông choàng tỉnh dậy và thấy hình mũi tên nho nhỏ vào chỗ đó… Ông tập hợp mọi người và kể hết lại . Ai cũng phải tin vì đây chính là cơ hội cuối. Tất cả những người còn sức sẽ đào cật lực. Đào liên tục thay phiên nhau suốt 18h và ông sờ nền đất hơi ẩm ẩm. Ngọn lửa sự sống hi vọng sẽ còn.
Ngày thứ 5: Mọi người sau khi thức dậy đã dùng hết sức lực để làm tiếp. Nếu như không tìm được thì đây là ngày cuối cùng họ sống trên mảnh đất này. Còn 4 người là đủ sức đào tiếp trong đó có ông mình. Cứ như thế đến khoảng 4-5 giờ sau thì lóe lên ánh sáng hi vọng. Ông và mọi người hò hét lên sung sướng vì đã tìm được lối ra gần ngay bờ sông gần khu dân cư sinh sống, hình như đây là nơi an táng của một số địa phương, hài cốt người rải rác khắp nơi.
Ông và 3 người còn lại đi tìm người giúp và cứu hết những người còn sống về ( tổng cộng khoảng 13 người còn sống). Ai cũng không ngờ rằng mình vẫn còn sống sau 5 ngày thiếu lương thực, nước uống, không khí và ánh sáng. Sau 1 tuần ông trở lại và nói hết diễn biến sự việc cho cấp trên nghe. Ai cũng không tin và cho rằng ông đã bịa chuyện, ông cũng thôi và phục vụ cho quân đội đến lúc hòa bình mới thôi.
Những người sống sót cùng kết nghĩa cùng ông và cùng nhau chiến đấu. Đến hòa bình chỉ còn lại 9 người và đến giờ chỉ còn có 6 người, hàng tuần đều đặn đều thấy 5 ông đến nhà em chơi. Trên bàn thờ nhà em còn 2 tấm bia riêng, một cái là cho anh thanh niên kia thì phải ( mình phải gọi bằng ông chú) còn tấm bia kia là dành cho những người đã hi sinh.
Có lẽ ông em đã biết trước sự việc và kể với em như thế. Ông đã tin rằng chính những thứ mà mình không tin đã cứu chính ông. Nhiều lần ông trình bày với ủy ban xã, họ đều không tin nên ông từ bỏ luôn.
Hết kì I… hẹn gặp lại các bạn.

Link FB:https://www.facebook.com/xemvn001

Theo dõi
Thông báo của
0 Góp ý
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận